22 tháng 9, 2011

Mạng xã hội Google Plus chính thức trình làng

Sau một thời gian dài chờ đợi, cuối cùng “Gã khổng lồ Internet” Google vừa chính thức giới thiệu mạng xã hội mới mang tên Google + (hay Google Plus) với kỳ vọng tạo ra cách thức chia sẻ mới mẻ cho giới trẻ trong thế giới web.



Về căn bản, Google + hoạt động dưới hình thức của mạng xã hội tương tác, cho phép giao tiếp với bạn bè thông qua môi trường web và chia sẻ thông tin.

Trước kia, Google cũng thử sức với mạng xã hội bằng việc ra mắt Buzz, tuy nhiên mạng xã hội đầu tiên này của Google không gặt hái được nhiều thành công, trong khi Facebook và Twitter có tiềm lực quá mạnh.

Điểm qua những tính năng nổi bật nhất của mạng xã hội Google +, cũng là sự khác biệt với các mạng xã hội lớn nhất thế giới hiện nay như Facebook, Twitter và MySpace.

Google nhấn mạnh vào bốn tính năng của Google +, gồm Circles, Sparks, HangoutsMobile Instant Upload. Trước tiên, Circles được Google quan tâm hơn cả.

Tính năng Circles giúp người sử dụng phân nhóm bạn bè và dễ dàng giới hạn chia sẻ. Ví như, nhóm bạn bè cùng cơ quan, nhóm người thân hay nhóm cùng sở thích âm nhạc… Mỗi nhóm sẽ được quản lý trong những “vòng tròn” riêng biệt. Vì vậy, khi người dùng muốn chia sẻ nội dung nhất định, họ có thể chọn nhóm muốn chia sẻ để kết nối.

Sparks là nơi bạn có thể chia sẻ nội dung web nhanh và dễ dàng hơn. Sparks cũng có thể hiểu đơn gian là tính năng cập nhật thông tin tự động. Nó sẽ tìm kiếm những tin tức, video, blog mà bạn quan tâm rồi lưu trữ lại trong khu vực nhất định.Hoặc mỗi khi tìm kiếm một thông tin nào đó trên Google thì cũng đồng thời bạn có thể lưu kết quả, sau đó chia sẻ, truy cập lại một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn so với việc phải mở lại bookmarks.

Trong khi đó, tính năng Hangouts được ví như những cuộc dạo chơi rồi tình cờ gặp bạn bè, sau đó có thể trò chuyện thoải mái. Hangouts là không gian người sử dụng có thể chat video cùng lúc với 10 thành viên khác nhau. Tính năng này tương tự chat nhóm của Skype hay MSN Messenger, tuy nhiên điểm khác biệt là việc cập nhật tin nhắn thời gian thực.

Tính năng nổi bật cuối cùng của Google + là Mobile Instant Upload, cho phép người dùng chia sẻ nhanh hình ảnh được chụp từ điện thoại trên mạng xã hội.

Hiện tại, có thể truy cập vào trang www.plus.google.com để trải nghiệm mạng xã hội mới này.

Tham khảo demo: http://www.google.com/+/demo

Xem video hướng dẫn



HVN (Tổng hợp từ internet)

15 tháng 9, 2011

Bá quyền văn hóa kiểu Trung Quốc

Nhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.


Diễn viên Trương Quốc Lập trong vai Càn Long (phim "Tể tướng Lưu Gù"), Kỷ Hiểu Lam ("Bản lĩnh Kỷ Hiểu Lam") và một loạt phim "giai điệu chủ" khác



* "Giai điệu chủ"

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1987...

Tháng 3-1987, Bộ Phát thanh - Truyền hình Trung Quốc triệu tập một hội nghị gồm đại diện của tất cả các đơn vị sản xuất truyền hình khắp cả nước. Tại đây, Bộ cảnh báo về xu hướng "giải trí hóa" phim ảnh trên sóng truyền hình, đồng thời đưa ra chính sách mới: tích cực, chủ động dồn lực sản xuất những bộ phim "giai điệu chủ" nhằm mục đích truyền bá lịch sử, văn hóa, tư tưởng và thẩm mỹ của Trung Hoa tới mỗi người dân Trung Quốc và thế giới.

Chính sách này phân loại phim truyền hình thành một số thể loại chính, nằm trong một khái niệm chung mà Chủ tịch Giang Trạch Dân gọi là "giai điệu chủ":

• Dòng phim về những đề tài mang tính thực tiễn, ca ngợi người tốt việc tốt - gọi chung là phim "thần tượng tuổi trẻ";

• Dòng phim cổ trang, gồm phim lịch sử ("Tam Quốc Diễn Nghĩa", "Vương triều Ung Chính", "Khang Hy", "Thái Bình Thiên Quốc"…), dã sử ("Tể tướng Lưu Gù", "Hoàn Châu Cách Cách"...)

• Dòng phim gia tộc luân lý ("Mùa quýt chín", "Gia tộc Kim Phần"…)

• Dòng phim cách mạng, dựng lại ngữ cảnh thời xưa ("Khát vọng", "Câu chuyện Thượng Hải"…) hoặc tái hiện chân dung những nhân vật nổi tiếng (Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…)

• Dòng phim hình sự, chống tham nhũng ("Xứng danh anh hùng", "Khống chế tuyệt đối"…)

Những phim này được Nhà nước hỗ trợ nhiều mặt, chẳng hạn ưu tiên chiếu ở các đài địa phương lớn vào giờ vàng.

Đặc biệt, chúng nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Nhà nước: Tất cả các phim, chỉ trừ dòng hình sự, chống tham nhũng, đều được hỗ trợ xuất khẩu, nhằm mục đích cao nhất là phổ biến "giá trị Trung Hoa" tới các quốc gia trong khu vực.

Trong số những nước mà Trung Quốc hướng tới, Việt Nam nổi lên như một tiền đồn, bởi "đây là nước Đông Nam Á duy nhất chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc thay vì văn hóa Ấn Độ", như lời tác giả Hạo Kiện viết trong cuốn "Phim truyền hình Trung Quốc - nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu loại hình" (NXB Điện ảnh Trung Quốc, 2008).

Phần lớn các phim "giai điệu chủ" đã được giới thiệu ở Việt Nam, khán giả nước ta chẳng xa lạ gì với chúng. Các phim đều được xuất khấu với giá hết sức ưu đãi sang Việt Nam, thậm chí một số phim cho không (như "Khát vọng", "Tây du ký", "Vương triều Ung Chính") theo thỏa thuận hợp tác giữa các đài truyền hình hai nước.


* Ồ ạt "xâm lăng văn hóa"

Song song với việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nhất là phim truyền hình, sang các nước trong khu vực mà đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc cũng tiến hành "Trung Hoa hóa" các sản phẩm của những nước này.

Bất chấp việc giới truyền thông Việt Nam đưa tin đậm về những phim hợp tác giữa hai nước như "Hà Nội Hà Nội" hay "Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong", các bộ phim này chưa bao giờ được ưu tiên chiếu giờ vàng trên sóng truyền hình của bất cứ đài nào ở Trung Quốc. Ví dụ, "Hà Nội Hà Nội" chỉ được phát trên đài tỉnh Quảng Tây, Nam Ninh vào lúc… đêm khuya thanh vắng.

Với nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình nổi tiếng đến từ các nước khác, Trung Quốc thực hiện làm mờ tính nước ngoài của chúng. "Vua Kungfu" (Forbidden Kingdom) dù là phim của Mỹ và từ đạo diễn đến quay phim, phục trang đều là người Mỹ, nhưng khi đến đại lục, phim mặc nhiên được giới truyền thông nhào nặn thành sản phẩm Trung Hoa.


Lý Mỹ Kỳ (Maggie Q), mẹ là người Việt, cha mang quốc tịch Mỹ, sinh tại Hawaii, nhưng vẫn bị đa số khán giả Trung Quốc nghĩ là người Hoa


Các ngôi sao châu Á của Hollywood cũng bị "Trung Hoa hóa" tương tự. Khán giả Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung dễ lầm tưởng rằng Dương Tử Quỳnh (sinh tại Malaysia, học ở Anh, thành danh trên đất Hong Kong), Maggie Q. (Lý Mỹ Kỳ - mẹ là người Việt Nam, cha mang quốc tịch Mỹ, sinh tại Hawaii) là người đại lục.

Trung Quốc cũng khéo léo lờ đi chuyện quốc tịch của nhiều diễn viên nổi tiếng trong nước họ: Hầu như rất ít người biết rằng ngôi sao Trương Thiết Lâm mang quốc tịch Anh, Tư Cầm Cao Oa là người Thụy Sĩ, Ninh Tĩnh là người Pháp, còn mỹ nhân Chương Tử Di gốc gác Hong Kong.

(Ngoài lề: Một vụ việc đặc biệt có liên quan đến Việt Nam, nhưng không thuộc lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, là cuốn "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" của Giáo sư Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, phát hành tháng 11-2008. Trong cuốn sách, tác giả cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh chính danh là Hồ Tập Chương, nguyên là một người Khách Gia [Hakka, tiếng Việt gọi là người Hẹ], tức thuộc Hán tộc.)


* Điều gì nằm sau chiến lược xuất khẩu văn hóa của Trung Quốc?

Một nước lớn với dân số hùng hậu như Trung Quốc khó mà chấp nhận tầm ảnh hưởng ít ỏi trên thế giới. Và trên con đường "trỗi dậy hòa bình" để trở thành bá quyền ít nhất là trong khu vực, Trung Quốc mau chóng nhận thấy sức mạnh của văn hóa - thứ "quyền lực mềm" đầy quyến rũ.

Chẳng riêng Trung Quốc biết điều đó. Như một nhà nghiên cứu người Hungary, Márkus Péter, đã viết: Trong lịch sử quan hệ quốc tế, thoạt tiên, khi không có sự khác biệt đáng kể trong kỹ thuật, sức mạnh chân tay - quân sự thô kệch còn chiếm vai trò chế ngự. Thế kỷ 16-19, những mối quan hệ kỹ thuật - kinh tế từng bước chiếm ưu thế. Từ thế kỷ 20, văn hóa và truyền thông bắt đầu lên ngôi.

Bên cạnh kinh tế và quân sự, các quốc gia sẽ thực hiện cả tham vọng gây ảnh hưởng và lấn át các nước khác trên bình diện văn hóa, tư tưởng. Sau Chiến tranh Lạnh, ở châu Âu, bên cạnh ngoại giao về chính trị và kinh tế, thì ngoại giao văn hóa ngày càng nở rộ, và dần dần sẽ trở thành hình thức bá quyền chủ yếu.

Pháp và Đức là hai quốc gia rất chú trọng tới vấn đề "bá quyền văn hóa" này. Các hoạt động “xuất khẩu văn hóa” của họ được tiến hành mạnh mẽ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó ngay tại Việt Nam: Chương trình hoạt động thường niên của Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace) và Viện Goethe dường như sôi nổi hơn hẳn so với Hội đồng Anh (British Council) hay Viện Cervantes của Tây Ban Nha.

Và đến đây thì chúng ta cũng có thể nhận thấy những hình thức ngoại giao văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành đối với Việt Nam, trong nhiều ví dụ thực tế. Phim truyền hình Trung Quốc chiếm sóng các đài ở Việt Nam, cả trung ương lẫn địa phương. Khán giả thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam. Các ca sĩ thời thượng rành rẽ về trang phục của đời Thanh và chắc chắn là sẽ không trả lời được câu hỏi vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa ăn mặc như thế nào.

Ngay trong giới trí thức, tâm lý sùng bái văn hóa Trung Hoa đã rất nặng. Một số đông trí thức Việt Nam có thể dễ dàng trích dẫn các điển tích, điển cố của Trung Hoa thay vì của phương Tây hay thậm chí của chính nước mình. Nói tới văn hóa Trung Hoa là nói tới một nền văn học với những tác phẩm vĩ đại, tới triết học thâm sâu, tới sân khấu kinh kịch có sức sống trường tồn, tới điện ảnh với những nhân tài mà ngay cả Hollywood cũng phải kiêng nể.

Điều này không sai, tuy nhiên, cái đáng nói ở đây là nhiều trí thức Việt Nam luôn vị nể quá mức thay vì đặt văn hóa Trung Hoa vào tương quan đúng mực với các nền văn hóa khác trên thế giới - cũng rực rỡ và vĩ đại như thế.

Khái niệm bá quyền văn hóa - tư tưởng mãi tới thập niên 30 của thế kỷ 20 mới ra đời (1). Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện bá quyền văn hóa - tư tưởng với láng giềng Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Ngày nay, với sự phát triển của truyền thông, dường như cuộc "xâm lăng văn hóa" này diễn ra một cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn bao giờ hết.


* Vấn đề đến từ phía những kẻ "bị xâm lăng"

Truyền bá văn hóa của đất nước mình là điều bất kỳ chính phủ nào cũng nên làm. Vấn đề chỉ là làm sao để có sự trao đổi văn hóa song phương và mọi quan hệ đều là hợp tác tương hỗ.

Bá quyền không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền, không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp phần của những kẻ bị bá quyền. Riêng trên địa hạt văn hóa - tư tưởng, các học giả nghiên cứu về bá quyền văn hóa đều cho rằng bá quyền văn hóa, nếu được thực hiện, không thể thiếu sự đồng thuận một phần hoặc toàn thể của kẻ bị bá quyền. Như thế, việc Trung Quốc tiến hành bá quyền văn hóa thành công còn phụ thuộc cả vào cách cư xử của nước bị bá quyền, ở đây là Việt Nam.

Điều đó nghĩa là Việt Nam cần có thái độ và ứng xử phù hợp. Chẳng hạn, nên có sự trao đổi văn hóa song phương với Trung Quốc một cách tương xứng.

Việt Nam có thể thỏa thuận các chương trình trao đổi văn hóa với Trung Quốc, theo đó, đồng thời với việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước láng giềng, Việt Nam sẽ xuất khẩu văn hóa theo hướng ngược lại, xuất bản sách, tổ chức những ngày văn hóa, tuần văn hóa Việt Nam... tại Trung Quốc.

Theo một thống kê (2) được công bố trên tờ "China Daily", năm 2004, Trung Quốc nhập khẩu 4.000 đầu sách từ Mỹ, nhưng chỉ xuất khẩu 14 đầu sách sang nước này; nhập 2.000 đầu sách từ Anh, nhưng chỉ xuất sang đây 16 đầu sách.

Từ năm 1999 đến năm 2002, hơn 280 đoàn nghệ thuật Nga biểu diễn ở Trung Quốc, trong khi chỉ có 30 đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang biểu diễn tại Nga. Giai đoạn 2000-2004, Trung Quốc nhập khẩu trên 4.000 phim và chương trình truyền hình, nhưng xuất khẩu không đáng kể. Dòng phim "giai điệu chủ" hầu hết chỉ tiêu thụ được ở khu vực Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam là "tiền đồn".

Đã đành Nga, Mỹ và Anh là ba nước lớn nên Trung Quốc không dễ tiến hành bá quyền văn hóa như với Việt Nam. Nhưng ngay cả một quốc gia nhỏ bé ở Đông Âu là Hungary - diện tích chỉ bằng một phần ba Việt Nam, dân số 10 triệu - thì cũng từng tổ chức Năm Văn hóa Hungary tại Trung Quốc (2007-2008), và dựng tượng đại thi hào dân tộc Petőfi Sándor ở Thượng Hải.

Những thông tin này có gợi cho chúng ta một suy nghĩ gì chăng?

(1) Khái niệm “bá quyền văn hóa” (cultural hegemony) do Antonio Gramsci (1891 - 1937) - triết gia chính trị, sáng lập viên Đảng Cộng sản Ý - đưa ra từ những năm 30 của thế kỷ trước. Gramsci cho rằng, để có được và duy trì quyền lực chính trị, giai cấp vô sản phải thực hiện bá quyền văn hóa, phải có tiếng nói thống trị trong truyền thông đại chúng và giáo dục, cũng như phải tiến hành kiểm soát toàn diện trên bình diện tư tưởng và tín ngưỡng.

(2) Đầu tháng 4, Văn phòng Chính phủ đã có công văn số 1992/VPCP-QHQT gửi Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập thí điểm một học viện Khổng Tử tại Việt Nam.

Học viện này có chức năng đào tạo tiếng Trung, tư vấn du học, tổ chức các hoạt động văn hóa. Trung Quốc có kế hoạch thiết lập khoảng 100 học viện Khổng Tử tại nhiều nước nhằm mục đích phổ biến văn hóa Trung Hoa ra thế giới.
Truyền bá văn hóa của đất nước mình là điều bất kỳ chính phủ nào cũng nên làm. Vấn đề chỉ là làm sao để có sự trao đổi văn hóa song phương và mọi quan hệ đều là hợp tác tương hỗ.

3) Số liệu lấy từ bài "Trung Quốc tăng cường trao đổi văn hóa" trên "China Daily". Báo "Người đại biểu nhân dân" dịch và đăng lại, 26-12-2006.

Đoan Trang

11 tháng 9, 2011

Những phút cuối cùng của nạn nhân vụ 11/9

Những nạn nhân trong vụ 11/9 đã có những phút cuối cùng trong cuộc đời theo cách khác nhau, nhưng có một điểm chung là sự xúc động tột cùng và mỗi câu chuyện đều có thể dựng thành phim.

Hầu hết trong số gần 3.000 người thiệt mạng trong vụ 11/9, khi 4 chiếc máy bay chở khách bị cướp rồi lao vào tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC), Lầu Năm Góc và một cánh đồng ở bang Pennsylvania, đã chết trong đơn độc, không có người thân nào ở bên cạnh.

Tuy nhiên, nhờ có sóng radio từ các máy liên lạc trên máy bay, những chiếc điện thoại di động, điện thoại tại các văn phòng ở tháp đôi WTC, hay thậm chí ngay cả điện thoại trả tiền trên những chiếc phi cơ bị cướp, những số phận bi đát ấy vẫn còn có cơ hội để gửi thông điệp cuối cùng tới thế giới bên ngoài.

Melissa Doi, một nữ quản lý 32 tuổi của IQ Financial Systems và làm việc trên tầng 83 tại Tháp Nam của WTC, đã nói chuyện được với các đội cứu trợ khẩn cấp trong ít nhất 4 phút. Giọng nói run rẩy đầy khiếp sợ của Doi đối lập với giọng trả lời ít cảm xúc và rành mạch như đã được lập trình sẵn của nhân viên trực tổng đài. Người ta có thể thấy sự lo sợ đến nghẹt thở của cô khi nghe lại đoạn đối thoại.

"Tôi sắp chết, phải không?", Doi nấc nghẹn. Nhân viên trực tổng đài đáp lại bằng những từ "không" liên tiếp. "Tôi sẽ chết", Doi lại nói. "Thưa bà, xin bà hãy cầu nguyện", người trực tổng đài cố gắng trấn an người phụ nữ 32 tuổi. "Lạy Chúa", Doi thốt lên. Đoạn đối thoại kết thúc không lâu sau đó, khi Doi khóc nấc lên trong sự hoảng sợ tột cùng: "Cứu!"

Trong số những cuộc gọi cầu cứu không đem lại kết quả, có một cuộc điện thoại từ máy di động của nhà tư vấn bảo hiểm Kevin Cosgrove, ngay khi văn phòng của ông ở tầng thứ 99 tại Tháp Nam bắt đầu rung chuyển.

"Ôi trời ơi..... !", Cosgrove, phó chủ tịch của công ty môi giới Aon Corp, hét lên lúc 09h58 sáng ngày 11/9/2001. Sau đó, giọng nói của ông dần biến mất, giữa những tiếng gãy đổ khi cả toà tháp đang dần sụp xuống. Đường dây sau đó bị ngắt.

Những hành khách và thành viên phi hành đoàn trên 4 chiếc máy bay chở khách cũng có những nỗ lực cuối cùng để cố gắng níu kéo sự sống.

Nữ tiếp viên hàng không dũng cảm Betty Ong, trên chuyến bay số hiệu 11 của hãng American Airlines từ Boston, đã gọi cho điều hành mặt đất, bình tĩnh mô tả việc hai đồng nghiệp bị đâm như thế nào, và thông báo "buồng lái không trả lời điện thoại".

"Tôi nghĩ chúng tôi đang bị không tặc tấn công", Ong nói lúc 8h19. Chưa đầy nửa giờ sau, Ong và những người còn lại trên chiếc máy bay biến mất trong quả cầu lửa ở Tháp Bắc của WTC.

Alice Hoagland, mẹ của hành khách Mark Bingham trên chuyến bay số hiệu 93 của hãng United Airlines, đã cố gắng gọi cho con trai của bà sau khi xem được những tin tức gây sốc về những vụ tấn công nhằm vào tháp đôi WTC. Thế nhưng, Bingham không trả lời. Chẳng còn cách nào khác, Hoagland nói với giọng đầy bình tĩnh của một người mẹ: "Hãy cố gắng giành lại quyền kiểm soát chiếc máy bay... Tìm thêm vài người và làm tất cả những gì có thể để giành lại nó." Bà nói thêm "Con yêu của mẹ".

Bingham được tin là người dẫn đầu một nhóm các hành khách chống lại những kẻ không tặc, dẫn tới việc chiếc máy bay lao xuống một cánh đồng ở bang Pennsylvania. Đây là một kết cục ít tồi tệ hơn rất nhiều so với việc chiếc phi cơ đâm vào một mục tiêu khác tại thủ đô Washington.

Ngồi trên chuyến bay mang số hiệu 175 của hãng United Airlines, chỉ vài phút trước khi nó lao vào Tháp Nam của WTC, Brian Sweeney cũng để lại một thông điệp cho vợ của mình là cô Julie.

Sau khi tiếng máy trả lời tự động vang lên "Tin nhắn một!", những từ ngữ cuối cùng của Sweeney được truyền tải một các giản dị nhưng đầy xúc động. "Nghe này, anh đang ở trên một chiếc máy bay vừa bị không tặc cướp quyền kiểm soát", Sweeney nói. "Anh chỉ muốn em biết rằng anh yêu em vô cùng. Anh muốn em sống tốt và hạnh phúc. Cả bố mẹ của anh và mọi người khác cũng thế. Anh yêu em biết bao."

Phần lớn các gia đình của những nạn nhân đã không thể có cơ hội để nói từ biệt với người thân yêu của họ. Trong phần lớn các ca tử nạn tại WTC, nhiều gia đình thậm chí không thể nhận diện được phần thi thể còn lại của người thân.

Nhưng việc có thể trao đổi vài câu với người thân trước khi thảm họa xảy đến dù là một may mắn nhỏ nhoi, nhưng cũng khiến những người ở lại chịu đựng nỗi đau theo một cách khác.

Everly Eckert nhớ lại cô đã hạnh phúc như thế nào khi nhận được một cuộc gọi của chồng, Sean Rooney, vào khoảng 9h30 trong cái ngày định mệnh ấy. Khi đó, cô nghĩ rằng vị hôn phu của mình đã thoát khỏi văn phòng của anh trên tòa tháp đôi.

"Nhưng anh ấy nói với tôi rằng đang ở tầng thứ 105, và ngay lúc đó tôi hiểu ra rằng Sean sẽ không bao giờ có thể về nhà được nữa", Eckert nghẹn ngào kể lại trên tạp chí New York. "Sau những phút dài nói chuyện, anh ấy thì thầm "Anh yêu em rất nhiều. Rồi tôi bỗng nhiên nghe thấy một tiếng nổ lớn."

Khi ấy, chồng của Eckert vẫn còn sống, nhưng cả hai cùng biết rằng tiếng động đó phát ra vì nguyên nhân nào. Tòa tháp đang bắt đầu sụp xuống. "Tôi đã liên tục gọi tên anh ấy trong điện thoại. Sau đó, tôi ngồi xuống sàn và ôm chặt điện thoại vào lòng."

Phan Lê (VnExpress)