28 tháng 4, 2011

Ngày tôi ra đi



Thứ Ba 29/04/1975:
...
Cả đêm hôm qua tôi trằn trọc ngủ không được vì tiếng đạn pháo kích rớt nghe rất gần đâu đó trong SàiGòn. Sáng ra mới biết là vài đầu đạn rớt trong Chợ Lớn, một rớt gần khách sạn Majestic, vài đạn đại bác 130 ly rớt ở sân bay Tân Sơn Nhất, và một rớt gần toà Đại sứ, giết chết hai người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Anh tôi đã dậy từ sáng sớm bật chiếc radio để nghe tin tức. Đài phát thanh nhắc lại SàiGòn đang nằm trong tình trạng thiết quân luật và giới nghiêm 24 trên 24, ra lệnh cho bác sĩ và y tá vào trình diện ở nhà thương. Sau một tuần nhậm chức Tổng Thống khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức rời Việt Nam vào ngày 21/04, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương hoang mang với chức vụ mới và yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội giao quyền Tổng Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Hôm qua đài truyền hình Việt Nam quay buổi lễ trao quyền cho Tân Tổng Thống. Trong bài diễn văn nhận lãnh chức vụ, Đại Tướng Minh ngoài thưa chuyện cùng Quân Đội và dân chúng VNCH cũng đã tuyên bố với chính phủ Cách Mạng Lâm Thời và “Những người anh em bên kia” là ông ta sẵn sàng giải quyết vấn đề VNCH trong hoà bình. Cả buổi chiều sau đó, đến đêm rồi cho đến bây giờ tiếng súng đạn vẫn không ngừng, chứng tỏ là Bắc Việt không xem ông ta đóng một vai trò nồng cốt trong cuộc chiến tranh này nữa. Mà làm sao có thể xem ông ta là quan trọng khi lực lượng bảo vệ SàiGòn sắp sửa sụp đổ hoàn toàn.

Trên trời trực thăng Chinook bay hàng hai, hàng ba từ phía biển vào, đánh dấu cho cuộc di tản cuối cùng của người Mỹ ở Việt Nam. Trong cái khung cảnh hỗn loạn của tiếng máy bay trực thăng vần vũ trên trời, của tiếng thùm thụp đạn đại bác, của tiếng máy bay Phantom xé không khí với tiếng gầm của động cơ máy bay lẫn tiếng thả bom, của tiếng đạn liên thanh AK47 và M16 liên tục bắn không ngừng.

Ở trước cửa nhà có tiếng Honda Dame tắt máy. Tôi nhìn ra cửa, đó là Tuấn, người anh thứ nhì của tôi. Hớt hãi vào nhà, anh ta nói lớn tiếng:
- Tất cả thu xếp đồ đạc lên nhà thờ Tin Lành Quốc Tế ở Trần Cao Vân, sẽ có trực thăng di tản.
- Chắc không? Mày lấy tin ấy ở đâu ra? Thịnh, anh cả của tôi hỏi lại.
- Chắc thì không chắc, nhưng em nghe tin trực thăng sẽ bốc mục sư Mỹ ở đó.
- Được rồi, như thế thì nhà chuẩn bị đi. Gặp lại vợ chồng mày ở Trần Cao Vân.
- Ừ, bây giờ em về chở vợ em. Hẹn gặp lại nhau.

Tôi nghe anh Tuấn nói mà không tin vào chính tai của mình. Chỉ chạy ra nhà thờ là được đi Mỹ sao? Tìm được móc nối để đi Mỹ khó vô cùng. Cho dù chính phủ Gerald Ford đã đặt áp lực với Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là Graham Martin rất sớm từ đầu tháng 4 ra lệnh di tản nhân viên Mỹ và những người Việt thiết yếu làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ, Martin từ chối. Ông ta viện lẽ di tản người Mỹ sẽ làm lung lay tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam. Do đó ông thông báo cho tất cả mọi người ai muốn rời SàiGòn phải tuân theo luật của chính phủ VNCH. Chính vì thế những người đàn ông Mỹ có vợ con Việt không cưới hỏi phải chạy đôn chạy đáo lo giấy hôn thú. Những người lo giấy tờ thừa dịp lợi dụng cơ hội, tiền phí tổn lúc bình thường không đến 20 đô-la bây giờ tăng vọt đến hơn một triệu đồng VN, khoảng một nghìn đô-la.

Từ ngày lập gia đình, anh Tuấn ở bên nhà vợ ở Ngã Bẩy. Nhà tôi chỉ có mỗi một mình anh ấy tin Chúa, không phải tin hời hợt như bao nhiêu người khác mà tin sốt sắng với một ý chí cương quyết bỏ trọn cuộc đời hầu việc Chúa. Bố tôi không tin vào đạo nào nên tôi cũng như bố tôi, thế nhưng ở giây phút tuyệt vọng không lối thoát như thế này, tôi bỗng nhiên tin vào Chúa của anh tôi vì bây giờ chúng tôi là người sắp chết đuối được anh tôi thẩy phao cấp cứu.
- U đâu rồi? Chị Liên đâu? Anh Thịnh hét lớn. Mấy đứa đi tìm U và chị Liên nhanh lên!

Chị Liên là vợ anh Thịnh. Nhà chị ấy ở gần nhà tôi, bên kia đường Phan Đình Phùng nên chị ấy thường về nhà thăm ba má, tìm chị ấy có lẽ không khó khăn. Thế nhưng U tôi thì khó tìm, bà ấy quen bao nhiêu người, xóm trên xóm dưới, xóm trước xóm sau, xóm gần xóm xa nên tìm cho ra U tôi là cả một vấn đề. Tôi và chị tôi chia phiên, chị ấy tìm chị Liên còn tôi thì tìm U. Tôi có cảm tưởng bỏ ra ba thế kỷ đi khắp nẻo đường đất nước thì cuối cùng gặp được U tôi ở nhà cô Bẩy may áo.

Dẫn U tôi về nhà, chị tôi đã tìm ra chị Liên trước. Anh Thịnh quát tháo mỗi đứa phải tự lo mang theo giấy tờ và những thứ gì cần thiết. Tôi đánh mắt đảo chung quanh nhà. Ý nghĩ đầu tiên trong trí tôi là phải mang theo gì để ăn vì ngay cả Napoléon nhận thức được là quân đội chỉ thẳng tiến khi bụng có đầy đủ thức ăn. Thế nhưng nhà tôi không có tủ lạnh, ăn ngày nào thì U tôi đi chợ mua thịt thà cho ngày ấy nên trong nhà hoàn toàn không có một món gì. Tôi chạy lên lầu. Bây giờ thì tôi nghĩ đến cảnh chạy loạn trong chiến tranh gia đình thất lạc phân tán hoặc người chết kẻ còn. Sợ rằng có thể sẽ không bao giờ gặp lại anh chị em nữa, tôi mở quyển album ra, lướt nhanh từng trang, gỡ khoảng hơn mười bức ảnh có hình của tất cả mọi người trong gia đình. Kế tiếp tôi nghĩ trong khi chạy loạn phải cần tin tức nên lấy cái radio trên bàn rồi đi xuống nhà. Tài sản chạy loạn của tôi chỉ có thế: một chiếc máy radio, hơn mười bức ảnh gia đình và mỗi một bộ quần áo trên thân.

Chạy xuống dưới lầu, tôi nghe chị tôi tỉ tê khóc:
- Em không có quần mặc.
- Quần mày đâu? Anh Thịnh thét.
- Em chỉ có hai cái quần, tối qua giặt hết rồi, bây giờ còn ướt.
- Thì mặc đại vào chứ sao?
- Không được, em đang bị. Đợi em ủi cho khô rồi hãy đi.
- Giặc đến đít rồi làm sao đợi cho mày ủi quần được. Mượn quần của U thì đã sao?

Chị tôi khóc thút thít, lấy cái quần satin đen của U tôi mặc vào. Cái lưng quần lẫn ống quần rộng thùng thình, chị ấy phải buộc cái ống quần cho nhỏ lại trước khi leo lên xe đạp. Đóng và khoá cửa nhà, chúng tôi kiểm điểm lại đủ mọi người trước khi đi: anh Thịnh chở U tôi, chị Liên chở đứa con trai năm tuổi của hai vợ chồng. Cả hai đi bằng xe gắn máy trong khi hai bà chị tôi, tôi và thằng em trai đèo nhau trên hai chiếc xe đạp. Mọi người đầy đủ, chúng tôi rời khỏi nhà. Cả xóm lúc này đã tụ tập chung quanh chúng tôi, nhiều người hỏi nhốn nháo đi đâu. Anh tôi không bao giờ nói chuyện với người hàng xóm nên không trả lời. Bà Tư Rỗ hỏi U tôi:
- Bà đi đâu vậy bà Quản?
- Ồ, đi lánh nạn ấy mà. U tôi trả lời.
- Vậy chừng nào bà về?
- Hết súng đạn thì về.

Ông Bắc Kỳ thợ bạc đối diện nhà tôi mặc bộ bà ba trắng đứng trước cửa nhà gật gù:
- Chắc chúng nó đi Mỹ.

Thằng cháu của ông ấy, bằng tuổi tôi mà tôi đặt cái tên chết liền với nó là Cường Cu Lé, chỉ tôi cười hằng hặc:
- Thằng Ngọc đi Mỹ Tho tụi bay ơi!

Đạp bánh xe chuyển bánh, dán mắt xuống đường phía trước, tôi không dám nhìn những người láng giềng với hàng chục con mắt soi mói nhìn theo. Tôi không dám trả lời họ là mình đi đâu vì chính tôi cũng không biết là sẽ đi đâu, và có đi được không. Trong bụng tôi run lo sợ chốc nữa xe ra đến đường cái cả nhà sẽ bị Quân Cảnh chận lại, xét xe không cho đi vì SàiGòn đang trong giờ giới nghiêm. Thế nhưng nhìn anh Thịnh trong quân phục chạy hướng dẫn ở phía trước, tôi cũng hơi yên lòng. Anh Thịnh là Bác sĩ Quân Y cho lực lượng Biệt Động Quân, nếu chúng tôi có bị ngừng thì nói với cảnh sát anh ấy là bác sĩ, đi trình diện ở nhà thương. Nói nghe hoàn toàn có lý.

Ngoài đường lác đác thường dân, phần còn lại là quân đội và cảnh sát. Đến mỗi ngã tư có cảnh sát, tôi cứ âm thầm đạp xe không nhìn vì sợ họ huýt còi thổi mình. Chị tôi thỉnh thoảng đạp xe quá chậm; sợ anh tôi bỏ rơi làm tôi cứ hối thúc chị không ngừng. Anh Thịnh chạy đâu chúng tôi chạy theo đó. Đầu óc tôi quá căng thẳng nên không biết phương hướng đường xá mà chỉ bám sát theo chiếc xe Mobylette của anh ấy. Khoảng nửa giờ sau, vào lúc 8 giờ 30 sáng, chúng tôi đến nhà thờ Trần Cao Vân. Vợ chồng anh Tuấn đã đến trước, đón chúng tôi ở cửa.

Khoảng sân xi-măng trước cửa nhà thờ trống vắng, chứng tỏ là ít người chưa biết địa điểm “di tản” này. Thế nhưng khi bước vào trong nhà thờ thì tôi thấy đã đầy người, có lẽ xấp xỉ đến ba trăm. Chọn một chỗ còn trống, cả hai gia đình ngồi bệt xuống đất. Tôi nghe thoang thoáng anh tôi nói chuyện với vài người khác trong nhà thờ. Họ đều quả quyết trực thăng sẽ đáp xuống di tản giáo sĩ Mỹ ở đây nên tôi hơi yên lòng.

Bây giờ là 11 giờ sáng. Ở nước Mỹ bên kia Thái Bình Dương, Kissinger ra lệnh thi hành giai đoạn thứ tư và là giai đoạn cuối cùng trong Chiến Dịch Gió Thổi Không Ngừng, Operation Frequent Wind: di tản người Mỹ bằng trực thăng ra hạm đội Mỹ chờ sẵn ở ngoài khơi. Operation Frequent Wind có 4 giai đoạn:

1. Di tản bằng hàng không dân sự từ Tân Sơn Nhất.
2. Di tản bằng máy bay quân sự từ Tân Sơn Nhất.
3. Di tản bằng tầu từ hải cảng chung quanh SàiGòn.
4. Di tản bằng trực thăng (chỉ dành riêng cho người Mỹ).

Quốc Hội Mỹ đã bày tỏ rất rõ trong giai đoạn khẩn cấp cuối cùng quân đội chỉ di tản người Mỹ thế nhưng cả Tổng Thống Ford lẫn Đại sứ Martin ngoảnh mặt làm ngơ chỉ thị này. Trong vòng hai mươi tiếng đồng hồ, quân đội Mỹ huy động 865 lính Thủy Quân Lục Chiến, bay 630 chuyến trực thăng, di tản 1373 người Mỹ, 85 người thuộc các quốc gia khác và 5595 người Việt Nam ra khỏi SàiGòn. Trong số này, số người di tản từ toà đại sứ Mỹ là 2100 người, 978 là người Mỹ.

Tiếng trực thăng Chinook lên xuống không ngừng, tiếng chong chóng đập “phầm phập” rất lớn khiến tôi suy nghĩ ngay là toà đại sứ Mỹ phải gần đâu đây. Bước ra nhà thờ nhìn lên trời, tôi cứ thắc mắc là chiếc nào sẽ ghé xuống đáp ở nhà thờ? Nhìn mãi cả giờ mà không thấy chiếc nào đáp, tôi nản chí. Bây giờ thì không biết ở đâu người ta kéo đến nhà thờ quá đông, ngồi đầy ở sân xi-măng bên ngoài không còn một chỗ trống. Nó làm cho tôi thất vọng não nề: không một chỗ trống cho máy bay đáp xuống thì làm sao mà di tản? Tôi nhìn đồng hồ, bây giờ đã giữa trưa.

Vào lại bên trong nhà thờ ăn miếng xôi của gia đình vợ anh Tuấn nấu, cứ mỗi giây phút trôi qua là tôi lại càng lo sợ cho ý nghĩ trong đầu mà tôi nghĩ không thể nào sai: sẽ không có máy bay nào đáp xuống vì tôi không thấy bóng dáng của một giáo sĩ Mỹ. Nếu có di tản thì máy bay đã đáp xuống từ ban sáng. Bắt đầu từ hai giờ trở đi, nhiều gia đình cũng có ý nghĩ như tôi nên họ dần dần bỏ về. Nhà thờ ngày càng thưa thớt, bãi xi-măng phía trước bây giờ trở lại trống vắng. Anh tôi nghĩ nhà thờ kiên cố hơn ở nhà, không đi được thì tạm trú ở đây qua đêm tránh bom vẫn tốt hơn ở nhà nên chúng tôi không tham gia với đám người rời bỏ nhà thờ trở về nhà.

Bốn giờ chiều 29/04. Từ lúc đông nhất khoảng năm trăm người, nhà thờ bây giờ chỉ còn vỏn vẹn độ năm gia đình. Vào khoảng ba giờ trưa Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu lên radio ra lệnh cho người Mỹ rời khỏi Việt Nam. Thế là hết. Người Mỹ rời Việt Nam thì SàiGòn chắc chắn sập, vô phương cứu chữa. Chưa bao giờ tôi tuyệt vọng như bây giờ.. Đúng lúc này thì một người chạy Vespa đi vào. Anh này tên là Bằng, nói chuyện với anh tôi và sau khi anh ấy lái xe đi, anh Tuấn mặt mừng rỡ nói với cả mọi người:
- Anh Bằng nói ở ngoài bến Bạch Đằng có tầu đi nhiều lắm, mình ra ngoài đó có cơ hội thoát.

Chúng tôi lại có người thẩy cho phao cấp cứu lần thứ hai. Lần này gia đình bố vợ anh Tuấn có chiếc xe cam-nhông nhỏ nên mọi người nhét vào hết trong xe hơi để anh con trai lớn nhất, tên Trung, lái. Anh Thịnh vẫn chở vợ anh ấy trên xe Mobylette. Anh Tuấn chở tôi trên xe Honda. Chiếc xe cam-nhông chạy sau hai chiếc xe gắn máy. Chỉ khoảng mười phút sau chúng tôi đã ra bến Bạch Đằng. Ai vì lệnh giới nghiêm khoá cửa trong nhà, nghĩ rằng ngoài đường chỉ có quân lính thì lầm to. Cả nghìn người nhốn nháo khắp nơi. Người ở trên đường sau khi đập phá vào các building tước đoạt đủ thứ đồ đạc như quạt máy, bàn ghế, nệm giường, quần áo, điện thoại…lũ lượt tìm đủ mọi phương tiện mang về nhà. Người về phía sông thì bao nhiêu ghe thuyền lớn nhỏ đủ loại, chiếc nào nằm nổi trên sông là họ leo lên bu kín không còn chỗ trống như ong lợp tổ. Chạy đến chiếc tầu to nhất, thấy một anh có vẻ như là thủy thủ của chiếc tầu, anh tôi ngước mắt lên, hét hỏi:
- Tầu này đi đâu vậy anh?

Anh chàng với gương mặt bất bình, chửi thề:
- Đ.M., tầu này không có đi đâu hết. Đậu ở đây rồi tự nhiên bà con cô bác ùn ùn leo lên tầu. Không có thuyền trưởng, không có đi đâu hết anh ơi!

Anh tôi nói cám ơn. Không di chuyển được bằng máy bay thì đường thủy bây giờ là con đường thoát duy nhất. Nhưng làm sao đi? Những chiếc tầu nhỏ khi ra đại dương rất nguy hiểm thì đầy những người, trong khi chiếc tầu lớn này thì lại không đi đâu hết. Tiếng súng đạn, tiếng trực thăng, tiếng phản lực, tiếng bom nổ vẫn dồn dập không ngừng làm không ai có thể suy nghĩ chín chắn trong lúc này.
- Anh Thịnh nhìn kìa!

Anh Tuấn hét, chỉ tay về một xà-lan đang trôi chầm chậm trên sông. Xà-lan là một bè sắt lớn hình chữ nhật, diện tích có lẽ bằng một sân tennis, chung quanh là bốn bức tường đầy bao cát cao khoảng ba thước, có lẽ thấp hơn những hàng rào ở sân tennis một tí. Bên ngoài bức tường, ở mép xà-lan chỉ đủ chỗ cho hai người chen vai qua lại. Đằng sau và bên hông có hai “lỗ hổng” to để bên ngoài có thể vào bên trong xà-lan. Quân đội dùng xà-lan để di chuyển súng ống, hàng hóa ở các tỉnh miền Tây, nhất là trên sông Cửu Long. Tường bao cát kín mít nên tránh đạn quân địch bắn từ hai bên bờ sông rất dễ dàng. Nó không có máy nên một chiếc tầu nhỏ khác kẹp ở bên hông đẩy nó đi. Trên chiếc tầu nhỏ này tôi thấy hai người lính Mỹ cầm súng gác. Hai người lính Mỹ này là lý do anh Tuấn chỉ cho anh Thịnh. Cả hai người đồng ý chạy theo cái xà-lan vì nó sẽ đưa mọi người ra Đệ Thất Hạm Đội.

Quyết định như thế xong, mặc cho bao nhiêu người khác tranh nhau leo lên những chiếc tầu đậu trên sông Bạch Đằng, chúng tôi leo lên xe và chạy theo chiếc tầu. Nó chạy trên sông thì chúng tôi bám sát nó dọc theo bờ sông trên đất liền. Tốc độ nó rất là chậm, và cho dù có chạy chậm đến đâu đi nữa cuối cùng nó cũng đến khuất sau hai cánh cổng lợp bằng mái tôn thật to ở Khánh Hội. Anh Thịnh và anh Tuấn ngừng xe. Từ nãy giờ cứ đinh ninh chiếc xe cam-nhông của bố vợ anh Tuấn chạy theo nhưng khi quay đầu lại nhìn thì không thấy bóng dáng chiếc xe đâu hết. Cả hai đều hốt hoảng vì con trai anh Thịnh và vợ anh Tuấn còn ngồi trên chiếc xe cam-nhông. Anh Tuấn nói anh Thịnh ở lại rồi quành đầu xe chạy đi tìm chiếc cam-nhông.

Bố mẹ vợ của anh Tuấn, ông Khoa, di cư vào Nam năm 1954 như gia đình bố mẹ tôi, có một con trai và hai con gái: Anh Trung, chị Nhàn (vợ anh Tuấn) và Diễm. Anh Trung có vợ là chị Thủy, người Nam, và ba đứa con gái nhỏ. Tất cả ngồi trên xe cam-nhông với U tôi, chị em tôi và vợ con anh Thịnh. Anh Tuấn chạy ngược lại con đường, mắt dảo dác nhìn khắp nơi xem có phát hiện ra chiếc cam-nhông. Trong bụng anh thắc mắc ghê gớm không biết tại sao anh Trung không chạy theo anh ấy? Xe hư? Anh Tuấn chạy nhanh quá xe cam nhông bắt không kịp? Hay cảnh sát thổi giữ xe lại? Chạy không đầy một phút thì anh Tuấn thấy chiếc xe cam-nhông đậu ở ngã tư một con đường. Tất cả vẫn còn ngồi trên xe, ngoại trừ hai bố con ông Khoa đang ngồi nói chuyện bên lề đường. Anh Tuấn ngừng xe, nóng lòng hỏi:
- Tại sao bố ngừng xe ở đây? Xe bị hư sao?
- Không, xe không hư. Ông Khoa trả lời.
- Anh Thịnh đã đến chỗ xà-lan đậu rồi, mình phải đi nhanh lên. Tại sao lại đậu xe ở đây?
- Vợ của thằng Trung không muốn đi vì sợ nguy hiểm. Vợ nó không đi thì nó cũng không đi. Tao đang thuyết phục nó đi đây.
- Anh Trung, đã đến đây rồi thì làm sao ở lại được? Phải đi chứ. Đâu phải chỉ có nhà mình thôi đâu mà còn gia đình U em trong xe nữa?
- Chị Thủy không đi thành ra anh phải ở lại với vợ con. Anh Trung trả lời.
- Có tụi em với anh chị mà, thôi đi đi!

Anh Trung uể oải đồng ý, leo lên xe chạy theo anh Tuấn đến chỗ xà-lan ngừng. Anh Thịnh mừng ra mặt khi thấy chiếc xe cam-nhông trở lại với vợ con anh ấy. Bây giờ thì tôi có dịp quan sát chỗ tôi đang đứng. Sau cái cổng có mái tôn che kín, chúng tôi biết chắc là chiếc xà-lan đang đậu ở bên trong. Bên ngoài cổng là bốn, năm người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ với súng M16 trên tay đứng gác không cho ai vào. Con đường trước cổng bây giờ xe cộ nhộn nhịp, dù rằng có lệnh giới nghiêm. Cái cổng quá tầm mắt người thường nên không thể nào một ai có thể biết diễn tiến gì đang xẩy ra bên trong. Đứng độ năm phút thì từ xa tôi thấy có một xe bus mầu vàng, trên xe có rất nhiều người da trắng chạy trờ đến. Khi xe ngừng thì người lính gác mở cổng cho xe vào rồi nhanh chóng đóng cổng lại. Bây giờ thì tôi khám phá ra đây là một trong những địa điểm di tản của chính phủ Mỹ trong Chiến Dịch Gió Thổi Không Ngừng, Operation Frequent Wind. Người Mỹ, ngoại quốc, hay người Việt Nam được phép di tản đều được cung cấp cho một địa điểm di tản và một mật hiệu bí mật, sẽ phát thanh trên radio Hoa Kỳ. Khi nghe tín hiệu bí mật -Bing Crosby hát bài White Christmas- những người đó đến trình diện ở địa điểm đã cho sẵn. Chiếc xe bus này đến địa điểm bí mật đó chở họ đến đây để rời SàiGòn bằng đường thủy.

Vì hai cánh cửa đã đóng, chúng tôi đứng đợi bên lề đường chờ một chiếc xe bus khác đến để lính Mỹ mở ra rồi ùa vào. Thi hành như dự định, mười phút sau chúng tôi lọt vào bên trong không một chút khó khăn. Tôi cứ tưởng đây là địa điểm di tản nên an ninh được bảo đảm, thế nhưng tôi lầm to. Ở bên ngoài tuy rằng có hỗn loạn nhưng không cướp giật, còn ở đây cướp giật trắng trợn giữa ban ngày. Có khoảng độ chừng hai trăm người nhốn nháo chuẩn bị leo lên xà-lan nhưng cũng có ít nhất một nửa số người khác, phần đông là con nít trẻ trạc bằng tuổi tôi, cướp giật thẳng tay. Chị Liên đeo một đôi dây chuyền trên cổ, vừa bước ra xe thì một thằng bé đưa tay nắm sợi dây chuyền giật đứt phăng từ trên cổ chị ấy rồi nó lẻn biến mất trong chớp nhoáng. Anh Tuấn vừa ngừng tắt máy xe, một gã thanh niên đã đến hỏi anh ấy nếu anh lên xà-lan rời nước thì đưa chìa khoá xe cho gã. Bà mẹ vợ của anh Tuấn nấu một nồi xôi rất to, khi di chuyển thì để sau xe cam-nhông. Xe vừa ngừng thì một anh thiếu niên thò hai tay vào khiêng thùng xôi lấy chạy đi mất. Cướp giật khắp nơi không lính tráng kiểm soát. Tôi nhìn ra bờ sông thì không phải chỉ có một mà có đến ba chiếc xà-lan. Anh Thịnh, quen với quy củ quân đội, nói gia đình chúng tôi nhanh chân quy tụ thành hàng một rồi bước sang chiếc xe cam-nhông nói gia đình ông Khoa cũng làm như thế. Anh Trung và bố mẹ là ông bà Khoa ra ngoài xe đứng nói chuyện nhưng vợ anh Trung và ba đứa con gái nhỏ vẫn còn ngồi trong xe. Chỉ trong khoảnh khắc là bên gia đình tôi và vợ anh Tuấn, em gái anh Tuấn đã sẵn sàng để di chuyển. Bên kia vẫn chưa nhúc nhích: vợ anh Trung vào giây phút chót đổi ý không muốn đi vì thấy xà-lan nguy hiểm. Anh Thịnh nổi nóng, sau thêm vài phút không đợi được nữa, bảo chúng tôi leo lên xà-lan. Vợ anh Tuấn, chị Nhàn và cô em gái thấy bố mẹ mình không nhúc nhích thì oà lên khóc, hét lớn:
- Anh Trung, chị Thủy, dắt mấy đứa nhỏ đi!
- Thầy U ơi, bỏ hết đi. Theo tụi con leo lên xà-lan!

Ông bà Khoa đang chạm trán với một quyết định sống còn không thể nào giải quyết: nên đi theo hai đứa con gái leo lên xà-lan rời bỏ Việt Nam, bỏ lại đứa con trai duy nhất đến phút cuối cùng quyết định không đi vì vợ, và do đó cũng bỏ lại ba đứa cháu ngoại của hai ông bà? Hay ở lại SàiGòn với vợ chồng nó và mấy đứa cháu ngoại, và như thế thì xa rời hai đứa con gái vĩnh viễn vì chúng nó sắp bước chân đi ra nước ngoài? Trước viễn ảnh thế nào cũng mất con, một là con trai, hai là hai con gái, hai ông bà bật khóc. Chị Nhàn và cô em gái giờ đã leo lên xà-lan cùng gia đình tôi, thấy bố mẹ ra đến đây rồi mà không đi làm cho cả hai điên lên, gào khóc không ngừng. Cả hai thay phiên nhau la hét lên hướng về bố mẹ:
- Thầy U ơi, leo lên tầu đi!

Bà Khoa cất tiếng thuyết phục con trai:
- Trung à, mày ráng thuyết phục vợ mày đi.

Chống cùi chỏ vào cửa sổ thành xe, anh Trung nói với vợ:
- Thôi mình đi đi em.
- Không được đâu. Nhìn cái xà-lan nguy hiểm quá.
- Có gì mà nguy hiểm, người ta đi thì mình cũng đi được chứ sao?
- Nhưng mà ba đứa con mình tụi nó còn nhỏ.
- Thì có Thầy U, rồi cô chú tụi nó lo phụ mình nữa mà.
- Nhưng đi bao nhiêu lâu? Rồi thức ăn, sữa đâu cho con bú?
- Đi ra Vũng Tầu gặp tầu lớn là có thức ăn với sữa chứ gì.
- Anh nói vậy chứ anh đâu biết có thiệt hay là không. Rồi lỡ đi đường trúng đạn chết thì sao? Ở nhà ít ra là không ai chết. Cộng Sản vô nhưng mình là thường dân không làm gì thì đâu có gì sợ, chẳng lẽ họ giết mình sao? Em nhất định không đi.

Quay sang mẹ, anh Trung nói:
- Vợ con nhất quyết không đi nên con phải ở lại.

Bà Khoa nói với chồng:
- Thằng Trung nó không đi thì tôi ở nhà xem cháu.
- Nhưng bà không nhớ mình đã chạy loạn năm 54 rồi sao? Ông Khoa nói với vợ.
- Tôi nhớ chứ. Nhưng bây giờ tôi già rồi, họ có làm được gì tôi.
- Tôi sợ lắm rồi, không thể nào ở lại được. Nhưng vợ chồng cả hai sống chết có nhau. Mình lấy nhau hơn ba mươi năm rồi, làm sao tôi đi nếu bà không đi?
- Tôi biết như vậy, nhưng không thể nào bỏ cháu được. Tôi không đi.

Bà Khoa đã nhất quyết, không thể nào bỏ mấy đứa cháu ngoại. Ông Khoa biết không thể nào thuyết phục được vợ, nước mắt tuôn trào, vẫy tay chào vĩnh biệt hai cô con gái. Chiếc xà-lan thình lình bắt đầu rời bến. Bây giờ không những chỉ có hai chị em chị Nhàn mà tất cả chúng tôi ai nấy cũng khóc thương cho ông bà Khoa ở lại. Chị Nhàn nằm vật vã trên boong tầu:
- Thầy ơi! U ơi! Thế là chúng con mất Thầy U vĩnh viễn rồi. Bao nhiêu năm Thầy U nuôi chúng con khôn lớn mà bây giờ tình cha con mẹ con của mình vĩnh viễn đứt đoạn như thế này…

Tôi khóc cũng một thời gian khá lâu rồi biết không thể nào thay đổi được số phận của mỗi người, nằm trong xà-lan yên lặng ngắm nhìn mây trôi mà không biết chính số phận của mình bây giờ rồi sẽ trôi về đâu? Chiếc xà-lan khởi hành vào lúc 5 giờ 45 chiều. Chỉ trong vòng hơn một giờ là trời đã bắt đầu nhá nhem tối. Ánh lửa súng đạn bắn nhấp nhoáng khắp bầu trời, thỉnh thoảng có những tiếng nổ ầm thật lớn mà tôi không biết từ đâu đến. Chín giờ tối thì tiếng máy bình bịch của chiếc tầu kéo từ từ dừng hẳn rồi chiếc xà-lan cặp vào bờ. Ý nghĩ tầu cặp bờ, nếu có Việt Cộng họ sẽ leo vào xà-lan được làm tôi run sợ. Thế nhưng giờ này chắc tất cả lực lượng địch quân đang tập trung đánh SàiGòn và trời tối như mực, đứng xa năm chục thước không thể nào thấy chiếc xà-lan trong màn đêm làm tôi hơi vững bụng. Không biết tầu có bị hư gì không mà ngừng độ một tiếng thì xà-lan lại bắt đầu chạy trở lại.

Thứ Tư 30/04/1975:

Hai giờ sáng thì tầu có lẽ chạy gần ra cửa biển nên họ đổi thế kéo. Thay vì chiếc tầu kẹp vào bên hông xà-lan thì nó chạy ra đằng trước, kéo chiếc xà-lan theo. Thỉnh thoảng trong bóng đêm trên mặt sông một vài chiếc ghe chạy bám theo xà-lan xin phép bỏ ghe, vào bên trong xà-lan. Đêm tối đen như mực không biết đâu là hư thực, nên những người có súng đã xung phong đứng ở sau xà-lan để kiểm soát. Những người bỏ ghe được phép lên xà-lan với điều kiện nếu họ có súng thì phải vất súng xuống sông. Độ một tiếng nữa thì tôi thấy chiếc xà-lan dừng lại rồi có tiếng người Việt từ chiếc tầu kéo dùng loa phóng thanh truyền tin tức: Trước mặt chúng tôi là một tầu Hải quân Việt Nam ra lệnh cho mình ngừng. Nếu lính trên tầu sang xà-lan bắt đàn ông trong lứa tuổi 17 đến 43 (lứa tuổi cách đây vài tuần ông Thiệu cấm xuất ngoại vì tình hình khẩn trương của đất nước) thì xin mọi người tuân theo lệnh. Hầu như gia đình nào cũng có đàn ông con trai vào lứa tuổi đó nên ai cũng tỏ vẻ quan tâm. Thế nhưng rất nhanh chóng vài người, rồi cả chục người đồng lòng quyết ý theo một anh chàng mặc quần áo lính:
- Đ.M., giờ này mà bắt bớ gì nữa. Bây giờ là mạnh ai nấy lo chạy. Nó qua bắt mình thì đừng có ai đi. Nó có súng mình cũng có súng vậy chứ bộ…

Mọi người chuẩn bị cho cuộc chạm trán thì nửa giờ sau ai nấy thở dài nhẹ nhõm: chiếc tầu Hải Quân Việt Nam sau khi khám phá ra lính Mỹ trên tầu kéo xà-lan thì xin đi theo để cũng tìm đường thoát ra Đệ Thất Hạm Đội.

Bốn giờ sáng thì tầu ra đến cửa biển. Trên mặt biển bây giờ tôi thấy lấp lánh bao nhiêu là ánh đèn từ những chiếc ghe đã ra đây đợi sẵn. Mấy tuần nay ai đọc tin tức cũng biết là Đệ Thất Hạm Đội Mỹ với năm hàm không mẫu hạm đã đến và chờ đợi ở ngoài khơi, chuẩn bị cho cuộc di tản. Vấn đề là không biết những chiếc tầu chiến này nằm ở đâu nên ghe chài cứ chạy ra đến đây rồi nằm chờ. Chiếc tầu kéo xà-lan không bật đèn chạy âm thầm trong bóng đêm nên từ xa những chiếc ghe thuyền khó phát hiện ra nó.

Xà-lan chạy như thế cho đến khoảng bẩy giờ thì trời mưa tầm tã. Không một ai đem theo áo mưa hay một miếng nylon nào nên hầu hết tất cả mọi người quần áo ướt sũng. Không muốn để cho hành lý bị ướt, người nào cũng dùng thân mình che bọc nó, hy vọng hành lý vẫn được khô. Cơn mưa kéo dài cả giờ, và lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy lạnh kinh khủng. Ngày xưa còn bé mỗi lần mưa tôi cởi áo ra tắm mưa cả hàng giờ mà có khi nào thấy lạnh? Bây giờ thì mặc cho tôi đứng lên ngồi xuống, len lỏi qua bao nhiêu là người, đi vào đi ra, cái lạnh nó vẫn nằm trong tận cùng tim phổi. Lạnh đến nỗi tôi đã có ý nghĩ trong đầu là thà chết còn sướng hơn.

Từ sáng đến giờ không một ai biết là tầu sẽ đi đâu nên từ khi ánh bình minh ló dạng, mọi người cứ khoắc khoải nhìn về phía trước để xem có thấy hình dạng bất cứ một chiếc tầu chiến Mỹ nào không. Đến độ chín giờ thì tôi thấy lố nhố một hàng đen ngòm ở chân trời. Một khung cảnh và cảm tưởng không thể nào quên vì tôi nghĩ đã chứng kiến một cảnh biểu dương oai nghi hùng vĩ của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ: hằng hà sa số chấm đen rạp cả một chân trời. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm là cuối cùng mình cũng đến đích. Thế nhưng khi chạy gần đến thì mới vỡ lẽ: hàng trăm chấm đen ấy lại là ghe tầu Việt Nam thứ hai đợi sẵn ngoài khơi! Bây giờ trời đã sáng tỏ, những ghe thuyền này phát hiện ra xà-lan dễ dàng và tất cả chạy theo, tuy rằng họ giữ một khoảng cách xa xa.

11 giờ sáng: Một hình ảnh đẹp nhất trong đời tôi đã từng chứng kiến: một chiến hạm Hoa Kỳ của Đệ Thất Hạm Đội nằm lênh đênh giữa biển. Nó biểu tượng cho sự tự do! Chiếc tầu nhỏ kéo xà-lan cặp vào phần sau đuôi tầu và trên tầu lính Mỹ thòng một cầu thang xuống phần trước của xà-lan. Đoàn ghe thuyền đi theo biết rằng cũng sắp sửa nếm mùi tự do như chúng tôi nên gia tăng tốc độ chạy đến xà-lan. Thế nhưng số phận họ chưa được may mắn bằng chúng tôi: lính Mỹ trên tầu bắn chặn phần đầu ghe, ngăn chận đoàn ghe đến gần chiếc xà-lan. Họ cứ bắn liên tiếp như vậy cho đến một lúc những ghe dẫn đầu phải quành ghe lái rời xa chiếc xà-lan. Trên tầu chiến họ ra lệnh không một ai được phép mang súng ống lên tầu nên ai có mang thì phải vất hết xuống biển. Mấy người lính trên xà-lan tuần tự tháo súng, gỡ lựu đạn quăng xuống biển. Anh Thịnh có mang theo khẩu súng Colt nên lặng lẽ theo mọi người ra mép xà-lan vất súng xuống biển.

Bên trong xà-lan tôi nghe văng vẳng tiếng lính Mỹ trên tầu quát tháo qua ống phóng loa:
- Women and children go first! Women and children go first!

Đám người trong xà-lan tranh nhau ra đằng trước đến chân cầu thang. Toán người đầu tiên không tuân theo lệnh chỉ có đàn bà và con nít đi trước nên lẫn lộn cả đàn ông. Thế nhưng khi mấy ông Việt Nam hùng hổ gạt đàn bà con nít khác để đi theo vợ con mình thì lính Mỹ trên tầu bắn chỉ thiên, ra lệnh cho họ xuống khỏi cầu thang, đợi trên xà-lan. Khi hầu hết đám đàn bà và con nít đã leo thang vào trong chiến hạm Mỹ, đạn pháo kích từ trong đất liền bắn ra. Từ đằng xa tôi có thể thấy một quả đạn pháo rớt xuống biển, bắn tung nước lên cao. Cả trăm chiếc ghe nãy giờ đậu quây quần chiếc chiến hạm Mỹ ở khoảng cách xa xa bây giờ bỏ chạy tung toé khắp nơi, không muốn tụ tập một chỗ để làm bia pháo. Đợi cho người đàn bà và con nít cuối cùng leo lên tầu, lính Mỹ trên tầu rút thang và chiếc tầu chiến rồ máy bắt đầu chạy về phía biển khơi để tránh đạn pháo, kéo theo chiếc xà-lan. Đám đàn ông còn kẹt lại trong xà-lan, kể cả bốn anh em tôi, hốt hoảng vì vợ con mình đã lên tầu mà mình thì còn kẹt lại ở dưới. Một đám đàn ông ùa đến phần đầu xà-lan chỗ cái thang vừa rút lên, la oái oái “Vợ tôi, mẹ tôi, con tôi ở trên tầu, cho tôi lên!”. Một hàng lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đứng dàn hàng trên tầu chiến nơi đầu cầu thang hét to:
- Sit down! Sit down!

Gọi vài lần như thế mà đám đông vẫn hỗn loạn nên lính Mỹ bắn một tràng chỉ thiên lên trời. Nghe tiếng súng, mấy ông Việt Nam tái mặt ngồi bệt xuống đất. Mang cùng dòng máu người Việt mục kích cảnh hỗn loạn tranh giành phần sống về mình, đến giờ tôi vẫn còn xấu hổ khi nghĩ đến cảnh vài anh chàng con nít Mỹ phải dùng đến súng để thị uy đám đàn ông Việt Nam lớn tuổi vào trật tự quy củ.

Chạy như thế khoảng nửa giờ xa khỏi tầm pháo từ đất liền, chiếc tầu chiến ngừng lại, thòng thang xuống cho đám đàn ông leo lên. Khi xà lan đã lên hết người, một chiếc xà-lan khác lại cặp vào và cứ như thế người tỵ nạn leo lên cho đến lúc đầy tầu. Khi chúng tôi lên tầu, vì đàn bà đã lên trước không biết họ ở đâu nên anh Thịnh ra phần trước tầu, còn anh Tuấn dẫn tôi và đứa em ra sau tầu để tìm. Chúng tôi không ngờ là để tránh hỗn loạn đi qua lại giữa đầu tầu và cuối tầu, lính Mỹ gác ở giữa tầu không cho người hai bên qua lại. Thế là cả một tuần tầu đi đến Subic Bay Phi Luật Tân, anh em tôi bị chia rẽ người đầu tầu, kẻ cuối tầu. Rất may là anh Thịnh tình nguyện làm bác sĩ chữa bệnh, anh ấy có quyền đi qua lại trên tầu nên cuối cùng chúng tôi cũng đoàn tụ: ngày cuối cùng khi tầu sắp cặp bến Subic, anh Thịnh biết người Mỹ sẽ cho người ở nửa đầu tầu xuống Subic để di tản bằng phi cơ sang Guam, phần còn lại sau tầu sẽ tiếp tục cuộc hành trình bằng đường thủy đến cùng một chỗ. Đêm hôm ấy anh giả chúng tôi là bệnh nhân và khiêng chúng tôi từng người một qua phần đầu tầu.

Khi đã tìm được một chỗ trong khoang tầu trú ngụ, tôi bật radio: SàiGòn đã lọt vào tay Bắc Việt. Trong khi ở ngoài khơi chúng tôi chứng kiến sự hiện diện cuối cùng của người Mỹ ở Việt Nam thì vài giờ trước đó trong đất liền ở toà đại sứ Hoa Kỳ vào lúc 5 giờ sáng, Đại Sứ Graham Martin đáp trực thăng rời SàiGòn. Một khi biết Martin đã lên máy bay, Tổng Thống Ford ra lệnh chấm dứt cuộc di tản. Sau khi nhân viên CIA và lính cận vệ cuối cùng nối đuôi theo Martin ra Đệ Thất Hạm Đội, tòa đại sứ Mỹ chỉ còn khoảng 30 lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Ba mươi lính phải đương đầu với hơn 400 người Việt vẫn còn bên trong sân nghĩ rằng mình sẽ được di tản nhưng không biết là máy bay sẽ không trở lại, và hơn 5000 người bao vây bên ngoài đang tìm lối vào bên trong. Lính Mỹ đã thiết lập sẵn ba vòng đai bên trong toà đại sứ. Khi người Mỹ cuối cùng đã được trực thăng di tản, họ bắt đầu rút lui từ vòng đai một, tử thủ cho phần đất cuối cùng là sân thượng để chính những người lính Mỹ này cũng được di tản. Cái vòng đai thứ nhất là cổng chính. Nhờ dây xích khoá lại mà đám đông bên ngoài không đẩy vào. Thay vào đó, họ leo tường tràn vào nhưng trong suốt thời gian trực thăng đáp xuống di tản, lính Mỹ thành công trong việc phòng thủ cổng, xô ngược những người trèo rào rớt qua trở lại bên kia tường. Khi được lệnh rút lui lên sân thượng, họ bỏ vòng đai thứ nhất đó, chạy vào bên trong toà đại sứ và khoá cửa lại. Đám người bên ngoài nhận thấy không còn lính gác cổng nên thi nhau trèo tường để vào. Bên trong khuôn viên toà đại sứ cũng có cả trăm người Việt Nam chờ đợi di tản, thế nhưng số họ không may vì không còn trực thăng vào đón họ nữa. Khi thấy lính Mỹ rút vào bên trong toà đại sứ và đóng cửa lại, họ chợt nhận ra là sẽ không có máy bay đáp xuống sân và con đường duy nhất để đi là lên sân thượng đón trực thăng nên đám người bên trong họp với đám người bên ngoài ùa nhau vào cửa chính. Đối diện với cả nghìn người mà ngay chính quân mình chỉ có trên dưới 30 lính, lựu đạn cay có lẽ là phương thức nhanh nhất để giải toả đám đông nhưng đám Thủy Quân Lục Chiến Mỹ không dám dùng. Thứ nhất là họ không muốn khiêu khích đám đông. Nếu đám đông nổi giận xông vào cùng một lúc thì bắn bao nhiêu đạn đám lính cũng không thể nào thoát khỏi SàiGòn, và thứ hai là không một anh lính nào mang mặt nạ chống lựu đạn cay. Ném lựu đạn đi mà đám đông nhặt rồi ném lại thì ngay chính lính Mỹ cũng bị ngửi hơi cay.

Đám lính rút lên vòng đai cuối cùng là cửa đến sân thượng mái nhà. Họ đổ ngã tủ sắt, lấy những bình chữa lửa khổng lồ chặn cửa để bên ngoài không đẩy cửa vào được. Khoảng 30, 40 người Việt Nam đã phá được cửa bên kia, leo lên sân máy bay trực thăng thường đậu. Thế nhưng từ đó họ không thể nào trèo sang mái nhà sân thượng bên này. Tất cả lính được lệnh cởi bỏ hành trang lại để có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Cả đám chia nhau tấn cửa và quan sát từ trên mái nhà, đề phòng đạn bắn. Tim mọi người đập liên hồi vì họ có thể nghe thấy đám đông Việt Nam đã phá cửa bên dưới, tràn lên bên trên và tìm mọi cách phá bên kia cửa. Nửa giờ đồng hồ đợi trực thăng từ ngoài khơi Vũng Tầu bay trở lại đón tưởng chừng như không bao giờ đến, thế nhưng cuối cùng chiếc CH-46 xuất hiện, đáp xuống và di tản những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ cuối cùng rời khỏi SàiGòn: 7 giờ 53 sáng ngày 30/04/1975.

Đúng 10 giờ sáng, Dương Văn Minh phát thanh trên radio tuyên bố đầu hàng. Ký giả Tiziano Terzani người Ý-Đại-Lợi ở trên khách sạn Caravelle nhìn xuống đường Lê Lợi thấy Trung Tá cảnh sát Nguyễn Văn Long đến đứng trước tượng người lính ở công trường trước Quốc Hội, rút súng để vào thái dương bắn tự sát. Độ vài phút sau khi ông ta đang nằm chết, một người lái xe gắn máy đến lấy khẩu súng và một người khác nữa gỡ đồng hồ đeo tay của ông ấy.

Chiến hạm Muller chở chúng tôi đến căn cứ vịnh Subic, Phi Luật Tân vào lúc sáu giờ chiều ngày 04/5/1975. Sau khi tiêu khiển vài thời gian trong trại tỵ nạn ở Phi Luật Tân, Orote Point và Asan ở Guam, ngày 30/5 gia đình tôi nhập trại tỵ nạn Fort Indiantown Gap thuộc tiểu bang Pensylvania ở Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 7, tất cả mọi người ngoại trừ U tôi và vợ chồng anh Thịnh được một nhà thờ bảo trợ về định cư ở San Diego. Anh Thịnh không đi, tình nguyện ở lại trại làm bác sĩ chữa trị bệnh nhân cho đến lúc trại đóng cửa ba năm sau, khi người tỵ nạn Việt Nam cuối cùng rời trại.

NTN
Tháng 4, 2010

19 tháng 4, 2011

Ngư Trường Truyền Thống

Phần 1

Phần 2

Phần 3

Phần 4


Nguồn: Đài Truyền Hình Việt Nam (VTV)

11 tháng 4, 2011

Tìm hiểu tương quan giữa sóng thần và động đất

Nhật là quốc gia có động đất và sóng thần nhiều nhất thế giới

Vào lúc 5 giờ 46 phút chiều Thứ Sáu 11 Tháng Ba, động đất dữ dội cường độ 8.9 có tâm điểm nằm ngoài khơi Tohoku Nhật Bản ở độ sâu 20 dặm, cách phía Đông thành phố Sendai 130 km, nhưng hướng lan truyền đi về phía Tây tức hướng đất liên.

Tính từ năm 1900 đến nay, đây là trận động đất lớn hàng thứ 5 trong lịch sử thế giới.

Cơn địa chấn gây nên báo động sóng thần (tsunami) ở dọc theo duyên hải nước Nhật, cùng nhiều nước gồm New Zealand, Úc, Nga, Đảo Guam, Philippines, Indonesia, Papua New Guinea, Nauru, Hawaii, Bắc Marianas và Đài Loan. Hai thành phố ở Nhật bị ảnh hưởng nặng nhất là Sendai (Tohoku) và Tokyo (Kanto).

Cảnh báo sóng thần do Nhật đưa ra được coi là cao nhất trong thang điểm báo động, cho thấy rằng sóng có thể cao đến 10 mét.
Với cơn địa chấn mạnh 8.9 độ Richter, trận động đất ở Nhật được coi là mạnh thứ 5 trên thế giới kể từ năm 1900.


Nước Nhật nằm dọc theo ‘vòng đai lửa Thái Bình Dương’ (Pacific Ring of Fire), nơi các phay địa tầng của vỏ quả đất va chạm nhau dọc theo rìa Thái Bình Dương. Nhật nằm trên phay Pacific, bên dưới Thái Bình Dương, phay này dịch về hướng Tây và nhấn sâu vào lòng quả đất, dọc theo rãnh sâu ở bờ Đông Nhật Bản. Trung bình, phay Pacific di chuyển 3.5 inch mỗi năm nhưng tiến trình này thường không liên tục.

Sự chuyển dịch có thể bị ngưng lại khi hai phay dính vào nhau một lúc, khiến năng lượng tích lũy nhiều lên, bởi vậy cuối cùng khi lớp phay bắt đầu di chuyển trở lại thì đó là lúc tai họa xảy đến.

Tiến trình khi lớp phay này bị đẩy xuống dưới lớp phay khác gọi là hiện tượng hút chìm (subduction), xảy ra dọc theo ‘Ring of Fire’, tạo nên động đất, trong đó có trận động đất cường độ 7.7 đánh vào vùng duyên hải Indonesia hồi tháng Bảy năm 2006.

Động đất khiến đáy biển nằm trên lớp phay bị nâng lên bất ngờ theo chiều thẳng đứng, chuyển động này làm dịch chuyển khối nước nằm bên trên, tạo nên một loạt những đợt sóng lớn được biết là sóng thần (tsunami).

Keith Sverdrup, giáo sư ngành địa vật lý ở trường Đại Học Wisconsin-Madison nhận xét: “Cũng tựa như khi ta ném một viên sỏi vào hồ nước và thấy sóng lan ra.” Sóng thần ở Nhật từ tâm địa chấn vừa lan về vùng duyên hải phía Đông nước Nhật, vừa lan về hướng Tây, theo một lộ trình dài hơn về vùng duyên hải phía Tây của Bắc Mỹ.

Sóng thần là một hiện tượng bất ngờ vì hiếm khi xảy ra. Sóng do Tsunami tạo nên không giống với sóng do bão tố, thủy triều gây nên, nó làm biến đổi hệ sinh thái và địa thế vùng đất mà nó đánh vào.

Ông Sverdrup nói: “Chúng ta chưa có khả năng tiên đoán được bao giờ có động đất xảy ra, mà chỉ có thể nói rằng một vùng nào đó có thể xảy ra động đất; dựa theo thống kê quá trình có động đất trước đó để đoán được cường độ của địa chần ở một thời kỳ nào đó.”

Khi một trận động đất xảy ra, người ta có thể đoán được có sóng thần đi kèm không, bằng cách xác định phải chăng có sự chuyển dịch thẳng đứng ở lớp phay địa tầng và bằng cách xem kết quả do Hệ Thống Cảnh Báo Sóng Thần đo lường mực nước dâng cao ở quanh lưu vực Thái Bình Dương.

Hệ thống cảnh báo liền báo động cho cư dân ở khu vực có khả năng bị sóng thần ập vào. Ông Sverdrup nói: “Bất hạnh thay, càng ở gần tâm địa chấn càng ít có thời gian để báo động về sóng thần. Nhật là thí dụ điển hình vì họ không đủ thời gian để cảnh báo.”

Với đợt sóng di chuyển về hướng Tây, sóng đi với vận tốc 500 dặm một giờ, bằng tốc độ một chuyến bay hàng không.

Ở Nhật, cảnh báo sóng thần được đưa ra 5 phút sau khi động đất vừa xảy ra, kể cả ước lượng về độ cao của sóng.

Nhiều yếu tố giúp biết được trận động đất nào có thể đưa đến sóng thần như: cường độ của cơn địa chấn, hướng di chuyển của chấn động, và địa thế của đáy biển. Don Blakeman, nhà địa vật lý thuộc Trung Tâm Thông Tin Động Đất Quốc Gia của Viện Thăm Dò Địa Chất Hoa Kỳ nói: “Động đất có cường độ dưới 7.5 hoặc 7.0 thường không gây nên sóng thần.”

Động đất gây nên sóng thần khi nào chấn động đi theo chiều thẳng đứng, trong khi chiều ngang hiếm khi tạo được sóng thần. Vì độ cao của sóng tsunami bị ảnh hưởng bởi chuyển động thẳng đứng, do vậy sự thay đổi địa hình của đáy biển có thể làm tăng hoặc giảm độ cao của sóng khi nó đang di chuyển.

Trong suốt thời kỳ 1,313 năm tính đến năm 1997, Nhật là quốc gia được ghi nhận có nhiều sóng thần nhất trên thế giới với tổng cộng 195 lần. Trung bình cứ 6.73 năm thì xảy ra một lần.

Trận động đất lớn Hakuho được ghi nhận có sóng thần lần đầu tiên ở Nhật vào ngày 29 tháng 11 năm 684 ở ngoài khơi bán đảo Kii với cường độ khoảng 8.4 độ Richter, theo sau là một đợt sóng khổng lồ nhưng không có ghi nhận về số tử vong.

Động đất cường độ 7.1 và sóng thần gây cho 23,000 người chết ở Kamakura năm 1293, do hỏa hoạn lớn.

Khoảng 30 đến 40 ngàn người chết ở Wakayama do sóng thần cao nhiều mét, tiếp sau động đất 7.5 độ vào năm 1498.

Ngày 28 tháng 10 năm 1707, động đất 8.4 độ và sóng thần cao 25.7 mét ở tỉnh Kochi tàn phá 29,000 căn nhà và gây tử vong cho 30,000 người.

Năm 1771, động đất 7.4 độ gần đảo Yaeyama ở Okinawa và sóng thần cướp đi sinh mạng của 12,000 người. Nước tràn vào đất liền cao từ 30m đến 85.4m.

Năm 1896, động đất lớn ở ngoài khơi duyên hải Sanriku, ở phía Đông Bắc Honshu, tạo nên sóng thần cao hơn 30m, khiến 27,000 người chết.

Năm 1923, trận động đất Kanto mạnh mẽ ở phía Đông nước Nhật gây tàn phá Tokyo, Yokohama và vùng phụ cận, tạo sóng thần cao 12m. Tổng số có 100,000 người chết mà phần lớn do hỏa hoạn.

Sóng thần cao nhất được ghi nhận là siêu tsunami ở Lituya Bay năm 1958, sóng cao kỷ lục đến 524m. Gần đây nhất vào năm 1963, siêu sóng thần ở Vajont Dam đo được 250m.

Sóng thần gây tổn thất về nhân mạng nhất là sóng thần ở Á Châu năm 2004 với 230,000 ở 11 nước quanh Ấn Độ Dương bị chết.

Triệu Phong (Tổng hợp)

6 tháng 4, 2011

Truyện ngắn: Trăng là gì?

Gia đình tôi với gia đình “hắn” là chỗ thân tình. Cách đây khoảng chục năm, nhân dịp tôi đến khám mắt tại bệnh viện hắn làm việc, hắn say sưa khoe với tôi về nguồn thu nhập hậu hĩnh kiếm thêm từ việc khám và giải phẫu mắt ngoài giờ của mình. Bất ngờ, tôi đặt ra một câu hỏi, chẳng ăn nhập gì đến câu chuyện hắn say sưa: “Có bao giờ ông dành thời gian ngắm trăng với vợ, con không? Đến lượt tôi bất ngờ vì câu trả lời của hắn: “Trăng là gì?”.
Về nghề nghiệp hắn là bậc cao thủ trong làng chuyên khoa mắt của Sài Gòn. Bệnh nhân của hắn thuộc loại “thứ dữ”. Hắn có nhiều mối quan hệ xã hội “có số, có má”. Do vậy đồng nghiệp và Ban giám đốc bệnh viện, nơi hắn làm việc, nể hắn một phép. Tên tuổi của hắn đã giúp bệnh viện ăn nên làm ra, chuyên khoa mắt lúc nào cũng chật cứng người chờ đợi. Ai muốn được hắn trực tiếp khám và mổ, phải đăng ký trước, rất lâu. Số tiền chi ra cho những lần khám hoặc mổ đó, so với mặt bằng giá ở các bệnh viện khác, cao hơn rất nhiều. Thế nhưng lịch khám của hắn lúc nào cũng dày đặc. Người ta nói với nhau, “được bác sĩ (hắn) đụng tay vào thì dù mắt đang không thấy đường cũng sáng lại”.
Hồi còn đi học phổ thông, tôi với hắn ở chung một quận, quận Nhì. Giải phóng vô, khu vực này sát nhập vào quận Nhất. Tôi với hắn bằng tuổi nhau, nhưng hắn sanh sau tôi tám tháng, vì vậy sau này khi hắn lập gia đình và có con, hắn dạy tụi nhỏ gọi tôi bằng bác, bác gái. Nhưng trong giao tiếp hắn gọi tôi bằng “bà”, tôi gọi hắn bằng “ông” và chúng tôi xưng “tui” với nhau.
Tôi quen hắn và vợ hắn lúc chúng tôi cùng sinh hoạt trong Ban liên lạc học sinh cùng lớp, hắn làm trưởng ban, tôi làm phó ban, vợ hắn (lúc bấy giờ nó chưa quen) là một trong những thành viên. Sáng thứ bảy nào Ban liên lạc của chúng tôi cũng gặp nhau tại một nhà hàng cà phê trên đường Điện Biên Phủ, quận Ba. Chủ nhà hàng này cũng là thành viên trong Ban liên lạc, nhờ vậy chúng tôi ăn uống ít khi phải trả tiền, nếu trả cũng chỉ là tượng trưng.
Cô gái (mà sau này là vợ hắn) đẹp một cách mong manh, vì vậy chúng tôi đặt tên là “cô gái mong manh”. Cô là con gái duy nhất của một gia đình công chức thường thường bậc trung, nhà ở quận Nhất. Cô gái hay đi họp Ban liên lạc bằng cách ngồi trên chiếc xích lô đạp cho người ta chở, thân mình lúc nào cũng diện bộ áo dài lụa màu nhạt, lung linh như mây khói (cho tăng thêm phần mong manh?). Gái Sài Gòn chúng tôi có thói quen đi lại trên chiếc xích lô (5 năm sau ngày giải phóng vẫn giữ thói quen này). Khi ngồi trên xe chúng tôi chú ý giữ cho người thẳng bằng cách lưng không tựa vào thành ghế, tóc buông xõa và tay không giữ tà áo, cố ý để gió luồn vào thổi tung bay. Hình ảnh ấy góp phần làm phố xá mỹ miều. Tại sao gái Sài Gòn không đi bộ hoặc đạp xe đi học như quý cô nương khác trên cả nước? Có lẽ do diện tích Sài Gòn rộng, đi bộ không tới, đi xe đạp ngại mỏi chân. Nhưng còn một lý do tế nhị khác mà chỉ có gái Sài Gòn mới hiểu, ngồi xe xích lô cho người ta chở mới là tiểu thư chính hiệu!
Hắn là con của ông bà chủ hãng xuất nhập khẩu. Nhà hắn có ba anh em trai, cả ba học cùng trường với chúng tôi, chỉ có lớp là khác. Khi đi học, ba anh em hắn có tài xế đưa đón, học xong là về nhà, không la cà phố xá. Những lần hắn tổ chức sinh nhật mời Ban liên lạc tới nhà, tôi thấy gia đình hắn, nhất là bà má, nề nếp qui củ lắm. Trong lớp, chúng tôi bầu hắn làm lớp trưởng vì hắn uy tín, học giỏi và tác phong nghiêm túc. Trong sinh hoạt tập thể hắn luôn là ngọn cờ dẫn dắt chúng tôi. Về ngoại hình thì khỏi chê, chúng tôi hay gọi hắn là “Alain Delon” (tài tử lừng danh của Pháp thời1950-1980) nhưng nếu muốn hắn nổi sung thì thêm chữ “beng” (A len đờ lông beng) đằng sau nữa. Nhiều tiểu thư nhà giàu đạt danh hiệu hoa khôi trường này trường khác mết hắn lắm, nhưng hắn chẳng thèm để ý đến cô nào.
Tới giờ tôi cũng không sao nhớ ra, bằng cách nào cô gái mong manh “lọt” được vào Ban liên lạc của lớp, nơi quy tụ những người “xuất chúng”. Về sắc diện, hình thức, học lực, tài vặt, thành phần xã hội, so với những tiểu thư trong trường, cô thuộc loại trung bình. Về công việc tập thể, Ban liên lạc giao cô phụ trách, cô thực hiện lúc được, lúc không. Nói chung, ngoài cái khoản mong manh làm người ta động lòng, còn thì cô chẳng tạo được một dấu ấn gì cho Ban liên lạc ghi nhớ sự hiện diện của cô. Thế mà đùng một cái chúng tôi thấy cô gái không đi họp bằng xe xích lô nữa mà ngồi trên chiếc xe Vespa Sprint màu xanh da trời, loại 150 phân khối do hắn chở. Thời đó, chỉ có công tử nhà giàu mới sắm nổi chiếc xe hách xì xằng như vậy. Chẳng bao lâu sau Ban liên lạc nhận được thiệp hồng. Ngày hai người cưới nhau tôi thấy hạnh phúc đầy tràn trong mắt tân lang và giai nhân. Khách tới dự tiệc cưới chúc vợ chồng hắn trăm năm hạnh phúc; tôi nghĩ, phải chúc ngàn năm hạnh phúc mới xứng. Thế mà, chỉ hơn hai mươi năm sau đó, vợ chồng hắn rẽ thúy chia uyên.
Lần gặp khoảng chục năm trước, mặc cho bệnh nhân chờ, hắn luôn miệng kể lể với tôi, đã có với cô gái mong manh hai mặt con, một trai một gái, cả hai theo nghề của cha, học chuyên khoa mắt bên Mỹ. Hắn nói, “Tụi nhỏ đứa nào cũng đẹp, học giỏi, thông minh, tụi Tây mết lắm, giống tui ngày xưa vậy”; nói xong hắn cười sang sảng. Tôi hỏi: “Cuộc sống của ông bây giờ thế nào?”. Chỉ chờ có vậy hắn huyên thuyên: “Sáng trước khi tới bệnh viện (Nhà nước), tui mổ hai ca, nếu mổ một con mắt thì hai mươi triệu, nếu mổ hai con mắt thì bốn mươi triệu, sau đó mới đi làm; trưa, tui tranh thủ làm một hoặc hai ca nữa; chiều, khám bệnh ngoài giờ ở dưỡng đường do tui làm chủ, đến tối mịt mới về nhà”.
Còn bà xã thì sao? Tôi hỏi tiếp, hắn trả lời: “Tui xây cho bà ba cái dưỡng đường, mổ xong, tui chuyển cho bả chăm sóc. Chưa kể tiền thuốc, khám sau mổ, chỉ tiền phòng không thôi bà cũng thu được năm triệu một người/ngày. Bả bây giờ trẻ, đẹp hơn xưa. Đó là nhờ tui cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Mỗi ngày bà chỉ có việc ngồi trên chiếc xe đời mới nhất (xe cũ tui thay liền) cho tài xế lái đi từ dưỡng đường này qua dưỡng đường khác, xem sổ sách, thu tiền, là hết việc. Chung quanh bả lúc nào cũng có hàng chục người hầu hạ, sung sướng như bà hoàng”.
Đúng đoạn hào hứng này tôi hỏi hắn “chuyện ngắm trăng”. Và tôi nhận được câu hỏi lại của hắn “Trăng là gì?”, kèm theo một nụ cười ngạo nghễ.
……
Hôm rồi cửa sổ tâm hồn của tôi lại trở chứng, nhìn xa bị mờ, nhìn gần mờ hơn nhìn xa. Thấy vậy, bạn bè người khuyên đi mổ, người can ngăn. Tôi chợt nhớ đến hắn, liền đến gặp, tôi cần ở hắn một lời khuyên.
Lần gặp lại này, nếu hắn không chủ động chào tôi trước, tôi sẽ không nhận ra. Trước mắt tôi là ông bác sĩ già khọm, tóc bạc trắng, mặt buồn rười rượi, nước da tối sạm. Đâu mất rồi một ông bạn có gương mặt phơi phới, hình thức lịch lãm và nụ cười ngạo nghễ? Thấy vậy tôi quên mất mục đích đến là để khám mắt, vội hỏi, “Làm ăn thất bát hả?”. Hắn im lặng rất lâu rồi nói một câu chẳng ăn nhập gì đến câu tôi hỏi: “Cô gái mong manh đã bỏ tôi đi lấy chồng khác rồi! Bỏ vội vã đến nỗi không thèm chia gia tài bà ạ”. Tôi giật mình: “Bỏ luôn ba cái dưỡng đường to đùng sao?”. Hắn nghẹn ngào: “Ừ, bỏ luôn, thế mới điên”.
Tôi nhẹ nhàng ngồi bên cạnh, cầm tay hắn, im lặng. Hắn bắt đầu chia sẻ: “Bà có nhớ cái thằng cù lần trong lớp mình không? Cái thằng hâm hâm đi học bằng chiếc Mô bi lết (Mobylette) cà tàng, con của ông già sửa xe đầu đường gần trường tụi mình học đó”. Hắn nói tiếp, mắt hắn như có nước: “Thằng đó coi vậy mà học giỏi, tụi mình không nhằm gì với nó đâu, bây giờ nó làm giáo sư của một số trường Đại học. Nghe nói, tình duyên nó trục trặc sao đó (không chừng hồi nhỏ nó thương thầm vợ tui à nghen) nó ở vậy luôn cho đến giờ. Hôm rồi làm thủ tục ly dị với tui xong, bả kết hôn với nó liền. Thằng đó nghèo rớt mồng tơi, lương thầy giáo nuôi bả gì nổi. Hiện nay bả phải nhận may quần áo thêm cho khách, hai người mới đủ sống. Vậy mà gặp lại tui mặt bả tươi rói, chưa bao giờ ở với tui mà mặt bả tươi rói như vậy”. Rồi hắn nói, như nói với chính mình: “Đàn bà nhiều người kỳ cục lắm, chồng cung phụng cho đủ thứ, nuông chìu hết mực mà vẫn đành lòng bỏ đi lấy người không bằng một góc của chồng mình. Thật không thể hiểu nổi…”.
Chờ hắn vơi bớt nỗi ấm ức tôi hỏi thăm hai đứa nhỏ. Tôi nghe từ hắn một giọng thiểu não hơn: “Tưởng hai đứa nối nghiệp cha, ngờ đâu, từ lâu tụi nó đã chuyển qua học nghề khác, đứa học thiết kế thời trang, đứa học phóng viên báo chí. Đã thế tui gọi về để giao tài sản mà chẳng đứa nào chịu về. Tụi nó nói “Ba mê tài sản hơn má và chúng con thì ba cứ giữ lấy”. Tôi động lòng thương cảm, hỏi: “Bây giờ ông sống như thế nào?”. Hắn nói, “Tui ở luôn trong bệnh viện, về nhà ở một mình, buồn lắm”. Không thể không hỏi thêm: “Thế căn nhà lớn ở quận Nhất và ba cái dưỡng đường ai ở, ai trông coi?”. Hắn nói, giọng nhẹ như gió thoảng: “Lâu lắm rồi tui chẳng ghé về nhà, còn ba cái dưỡng đường đang treo bảng bán hoặc cho thuê”. Thói quen nghề nghiệp, tôi đánh giá: “Ba cái dưỡng đường đó, bán cũng bộn tiền ông ạ”. Hắn ngẩng lên nhìn tôi, mắt hắn sâu thăm thẳm: “Của đó vô thường lắm, không có thật đâu bà”.
Giá mà, mười năm trước hắn nhận ra sự vô thường đó thì đoạn kết của đời hắn đâu đến nỗi buồn như bây giờ?
Tự nhiên tôi nhớ gương mặt phơi phới với nụ cười ngạo nghễ khi hắn hỏi ngược lại tôi “Trăng là gì?”.
Trăng là gì ư? Trăng là ly nước mát của vợ trao tận tay mà hắn quên uống. Trăng là cái bình hoa vợ chăm chút cắm mong chồng để mắt tới, thế mà hắn đành lòng không màng. Trăng là tiếng cười reo của hai đứa con đón hắn sau những giờ làm việc nhưng vì mệt, hắn đã cằn nhằn, quạu quọ. Trăng là những bữa cơm nóng mà khi hắn về thì đã nguội lạnh, rồi cả nhà nhịn ăn theo hắn.
Trăng còn là cái nắm tay âu yếm mà từ rất lâu hắn quên trao cho vợ. Trăng còn là những đêm vì sợ con lạnh, hắn rón rén bước qua phòng kéo mền đắp cho con mà sau này vì mệt mỏi, ngủ vùi, hắn quên. Trăng còn là tất cả những mây và gió, những hương và hoa trong cuộc sống mà do tâm không an, thân không lạc cho nên hắn không thể cảm nhận được.
Trăng là gì nữa? Là người vợ đã bỏ chồng giàu đi lấy chồng nghèo; là những đứa con thà kiếm tiền từ sức lao động và trí tuệ của mình chớ không nhận tài sản của người cha để lại. Trăng còn là kết cục của đời hắn, bỏ mặc căn nhà lớn ở quận Nhất và đóng cửa ba cái dưỡng đường to đùng vào ở trong bệnh viện vì, ở một mình buồn lắm.
Những người chồng bận rộn ơi, nhớ dành thời gian ngắm trăng với vợ và con, đừng để trăng lặn mất, rồi tiếc như hắn, bạn của tôi./.

Tạ Thị Ngọc Thảo

HVN(nguồn internet)