Xe song mã phục vụ khách du lịch tại Melbourne, Úc châu
(Ảnh tác giả chụp)
|
Trước đó, người Pháp đã đưa xe ngựa vào Đông Dương làm phương tiện vận chuyển hành khách cũng như hàng hóa. Người Pháp gọi xe ngựa ở thuộc địa là “Malabar” và sau này còn có tên “Boîte d’allumettes” vì hình dáng giống như một hộp diêm quẹt.
Một trong những hình ảnh được coi là xưa nhất của xe ngựa tại Sài Gòn là chiếc xe của Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manifacture d’Opium) được chụp vào khoảng đầu thập niên 1980 (*).
Có thể thấy dòng chữ bằng tiếng Pháp trên thành xe ghi rõ là xe của nhà máy. Phía bên trái là hình của một người phu xe kéo đứng nhìn chiếc xe ngựa, hình như anh rất ngạc nhiên với hình ảnh một chiếc xe do ngựa kéo được người Pháp đưa vào Đông Dương.
Xe ngựa trước Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện tại Sài Gòn |
Xe ngựa dùng trong quân đội thuộc địa |
Như vậy, ngay trong giới lái xe người bản xứ cũng phân chia nhiều đẳng cấp tùy theo mức độ sang trọng của phương tiện: thấp nhất là phu xe kéo (còn được gọi là cu-li), kế đến là “xà ích” (người điều khiển xe ngựa) và cao nhất là tài xế xe hơi (chaffeur).
Hình ảnh các phương tiện giao thông sau Nhà thờ Đức Bà vào thập niên 1920 |
Xe ngựa tại chợ Bến Thành |
Xe ngựa bên Nhà thờ Đức Bà |
Xe ngựa Sài Gòn khoảng 1930
|
Xe ngựa Chợ Lớn
Chiếc Malabar một ngựa |
Xe song mã tại Hải Phòng |
Có rất nhiều cách giải thích về xuất xứ về tên gọi xe thổ mộ tại miền Nam. Có người nói thổ mộ vốn có mái che khum khum giống hình ngôi mộ nên người bình dân gọi là… “thổ mộ”. Giải thích mang tính cách ngôn ngữ học cho rằng “thổ mộ” là chữ đọc trại từ “thảo mã” hay “thụ mã” theo tiếng của người Quảng Đông vốn là số đông người Hoa sinh sống tại miền Nam.
Xe thổ mộ chuyên chở hàng hóa giữa Sài Gòn |
… Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang,
Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một
Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu…
Vào những thập niên 40 và 50 là giai đọan phát triển của xe thổ mộ. Tại chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ hoạt động nhộn nhịp, có khi lên đến trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một còn có nhiều trại mộc đóng xe thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc. Xe sản xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là xe “Thùng Thủ” để phân biệt với các nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định “đẳng cấp” của mình.
Xe thổ mộ nhìn từ phía sau |
Gỗ làm xe thổ mộ phải là loại tốt như Giáng Hương, Căm Xe, gỗ mít… không bị mối mọt. Quan trọng nhất là cặp bánh xe vì là phần chịu tải chính nên được làm rất cẩn thận, trục ngang của xe bằng ống thép chịu lực cho thùng xe nhưng lại không dùng bạc đạn mà chỉ có ổ trục.
Mỗi bánh xe được ghép từ sáu mảnh gỗ gắn với 12 chiếc căm cắm vào trục bánh xe. Sau đó, một vòng sắt quấn quanh bánh xe để bảo vệ phần gỗ và cuối cùng một lớp nệm cao su được nịt chặt ở vòng ngoài.
Xe thổ mộ trên đường phố |
Bên trong thùng xe, khách ngồi trên chiếu đâu mặt nhau, guốc dép máng ở hai cọc sắt phía sau hai góc thùng. Nếu vắng thì khách ngồi thòng chân ở phía có bàn đạp lên, xuống. Hai vè bên thùng xe uốn gợn sóng có thể dùng để gác hàng hóa. Và trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc, nhô ra tới nửa mình ngựa, khum lại giống như mui chiếc ghe bầu nhưng cũng trông tựa một cái… mả nên nới gọi là thổ mộ (?).
Ngựa, xà ích và hành khách |
Về sau, có dòng xe thổ mộ “văn minh” hơn, được cải tiến từ bánh xe gỗ sang bánh xe bằng cao su bơm hơi với đường kính nhỏ hơn và do đó thùng xe cũng thấp hơn. Loại xe này giúp hành khách lên xuống thoải mái, an toàn. Khi chạy trên đường, lốp xe cao su êm hơn nhưng ngược lại, “tiếng nhạc” thổ mộ vốn có mất dần đi khiến những người “hoài cổ” không tìm lại được cái thú của ngày nào.
Dòng xe thổ mộ có bánh xe cao su |
Đọc truyện Chiếc xe thổ mộ của Bích Thủy ta mới thấy sự gắn bó thân thương giữa người xà ích và con ngựa kéo xe:
“Bộ giây cương treo trước tầu ngựa đã lên nước bóng láng. Gần đó, phía bên trái, chiếc xe thổ mộ cũng đã đuợc lau chùi cẩn thận nằm dưới bóng râm mát của cây trứng cá. Chỉ còn có con Long mã nữa là xong. Long mã là tên của con ngựa. Nó cũng cần tắm rửa sạch sẽ.
Bình mỉm cười khi nghĩ đến con ngựa. Nó đứng trong tầu, khuất sau mấy gióng gỗ, mớ lông đuôi nhịp nhàng phe phẩy. Bình nói với nó:
- Chờ một lát nữa nghe !
Long mã quay đầu lại hí nhẹ một tiếng, rồi vục mõm vào đống cỏ tươi trong góc chuồng.”
…
Con Long mã già rồi. Nó đã 28 tuổi ngựa! Tuy vậy nó vẫn còn giữ được phong độ của loài ngựa đua: Cao, thon, bộ da nâu sậm đã hơi nhăn vì các thăn thịt không còn săn sái như hồi còn sung sức. Nhưng bộ gió nó vẫn còn, nhất là đôi mắt vẫn còn giữ nguyên vẻ tinh nhanh”.
Nhân vật Bình ở đoạn trích dẫn mới chỉ là cháu nội của cụ Lâm, người xà ích sống ở Ngã ba Ông Tạ, ngày ngày chạy xe thổ mộ đón khách dọc theo đường Lê Văn Duyệt đến chợ Hòa Hưng, chợ Chí Hòa, ga Hòa Hưng... Hồi còn trẻ, cụ Lâm là một tay đua “tuyệt phích”. Về già, hai ông cháu thui thủi sống bên nhau, lấy chiếc xe thổ mộ làm kế sinh nhai.
Long Mã đã từng đoạt giải Quốc Khánh 1957, giải Mùa Xuân 1957 và giải Trung Thu 1958 tại trường đua Phú Thọ: “Con Long mã nom thật oai vệ. Bộ lông của nó đã được Bình chải chuốt, óng đỏ dưới ánh nắng dịu. Trên đầu của nó được trang điểm thêm một chùm lông trĩ đứng ngộ nghĩnh giữa hai chiếc tai vểnh nhọn, nom như chiếc mão của một võ tướng thời xưa!”
Hai ông cháu sống vào thời kỳ suy tàn của xe thổ mộ trước sự ra đời ồ ạt của xe xích lô, nhất là cyclo máy, đang đánh dạt xe thổ mộ ra vùng ngoại ô. Và cuộc chiến thầm lặng giữa thổ mộ và cyclo đang đi dần đến hồi kết cuộc.
Chiếc xe thổ mộ, tiểu thuyết của Bích Thủy
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnnntnvn4n31n343tq83a3q3m3237nvn
|
Một chút buồn thoáng qua khi hình dung đến hình ảnh chiếc xe thổ mộ ngày xưa. Một nỗi buồn không tên vẫn thường đến với những người mang nỗi lòng hoài cổ:
…Tôi không còn là tôi. Tôi trở thành ai đó
Những cuộc tình như trưa nắng lao xao
Xe thổ mộ ngỡ ngàng quanh chợ huyện
Chở tôi về nhưng tôi biết về đâu?...
(thơ Lê Minh Quốc)
Bến xe ngựa ở Tây Ninh |
***
Chú thích:(*) Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manufacture d’Opuim): Từ khi chiếm được Đông Dương, người Pháp đã biết đến một nguồn lợi tài chính họ có thể thu được từ thuốc phiện mà sự tiêu thụ đã lan tràn khắp nơi trong dân chúng.
Năm 1861, hai người Pháp đã được dành cho độc quyền buôn bán thuốc phiện, với một khoản lệ phí nộp cho chính quyền mỗi năm là 92.000$, nhưng mặc dù được hưởng những ưu đãi, việc kinh doanh của họ đã gặp nhiều trở ngại.
Đến năm 1864 và sau đó, bằng phương thức đấu thầu do chính quyền thuộc địa tổ chức 3 năm một lần, độc quyền buôn bán thuốc phiện đã luôn về tay những người Trung Hoa, ban đầu thuộc bang Quảng Tây rồi sau đó là Phúc Kiến. Do sự câu kết thông đồng của những người Hoa tham dự thầu, số tiền thu về cho chính quyền qua các kỳ đấu thầu mãi không tăng thêm được bao nhiêu, dù việc buôn bán thuốc phiện của họ ngày càng mở rộng và phát triển.
Năm 1881, Toàn Quyền Le Myre de Vilers quyết định thay thế việc nhượng quyền buôn bán thuốc phiện bằng việc quản lý trực tiếp của chính quyền thuộc địa. Thật ra, vị toàn quyền này biết rằng nếu nằm trong tay người Trung Hoa, việc buôn bán thuốc phiện chẳng khác nào một võ khí nguy hiểm cho nền an ninh và quyền lợi của người Pháp.
Đến cuối năm 1881, Cơ quan Thuế Trực thu được thành lập để bảo đảm việc khai thác độc quyền về rượu và thuốc phiện, và cũng để tiếp tục theo đuổi việc thu thuế đánh vào lúa gạo xuất khẩu. Chính vào thời kỳ này mà Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện được thành lập ở Sài Gòn tại số 74 đường Paul Blanchy (hiện nay là nhà hàng Hoa Túc trên đường Hai Bà Trưng).
Nguyễn Ngọc Chinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét