Tiểu sử
Chân dung Thi sĩ Hữu Loan |
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan,
sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham
gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là
thành phố Thanh Hóa).
Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và
khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện
Nga Sơn.
Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học,
xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa
trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục,
Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham
gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông
làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông
tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Ông
sáng tác những tác phẩm thường mang tính phản chiến và con người trong thời kỳ
chiến tranh.
Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm
1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại
địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà.
Ông nổi tiếng với bài thơ “Màu tím hoa sim” cảm tác do quá đau khổ
trước sự ra đi của người vợ đầu (Lê Đỗ Thị Ninh), tác phẩm được lưu hành rộng
rãi trong vùng kháng chiến chống Pháp. Có thông tin cho rằng, do nội dung bài
thơ nặng nề tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải
ngũ.
Sau ông lấy người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu, sống với nhau
cho đến khi ông mất
Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê
nhà, hưởng thọ 95 tuổi..
Lời tự thuật của tác giả bài thơ "Màu Tím Hoa Sim"
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa
để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời
về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất
,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc
cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán
vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt
tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi
rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia
sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh
tay, miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở to
đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã
hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy
viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh
em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít
nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em
chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn
cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những
buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc
nhà mang ra giếng giặt .....
Có lần tôi kể chuyện " bà cụ non" ít nói cho hai
người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một
tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà tham
Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không
nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc
thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng.
Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng
ý: "Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu" Em không chịu nhất định
đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ
đưa em lên núi chơi .....
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh
như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và
bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt
em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì.
Bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy
có thích ăn sim không ?
Tôi
nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi,
còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi
bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em
đưa lên miệng trầm trồ: -Ngọt quá.
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim
đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim
ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết
qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em
cũng đỏ tím, hai bên má thì....tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười
theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn
can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em
theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... lên tới bờ đê,
nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu
như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại...
em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức
từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại,
khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn
trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà...Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp
em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc
hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần
17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp....
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn
đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành
công là do bố mẹ em ngấm ngầm " soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi
kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong
ngày hợp hôn, bảo rằng là: " yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái
tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp
trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị
Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng
trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc
hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc
lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi
lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em
không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi
quay đầu nhìn lại.....Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn
man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết
thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra
giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị
nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng
nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp
nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội
biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác
không hồn....Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau
đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ
chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng
quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút
ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào
ra:
Nhà nàng có ba người anh
đi bộ đội
Những em nàng có em chưa
biết nói "Khi tóc nàng đang xanh ..." ...Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình
hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa...
Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó
là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan,
sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên
Hoàn - nơi tôi gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc xã Mai Lĩnh, huyện
Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước
cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên
tôi viết mới nổi những câu :
Chiều
hành quân, qua những đồi sim
/ Những
đồi sim, những đồi hoa sim /
Những
đồi hoa sim dài trong chiều không hết
/ Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt /
Và chiều hoang tím có chiều
hoang biết /
Chiều hoang tim tím thêm màu
da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng
đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi" hay cãi,
thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ chê
tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc
kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn
họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng
lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng
thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này
cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng
liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm
thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao
tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc
đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng....Y như trong thơ nói ấy,
tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi
đi giặt rồi chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc,
vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con
người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với
người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về
nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn
bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi,
đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe
đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía
sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng
vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản,
đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi...
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của
tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được
giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về
tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một
vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ
quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu
để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống
cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn
sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa
chủ năm 1954, 1955.
Hữu Loan và bà Phạm Thị Nhu |
Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận
mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm
thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô
cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15
cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo
đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của
tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề
nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố.
Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi
chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại
hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một
cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi
nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không
cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm
đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng
nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi
cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ
buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường
Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt
mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi
áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động,
nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị
đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị
xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu
hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết
đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi,
và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi
nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu
khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4
gái - và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng
màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ
tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà
chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn,
mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.
Thi sĩ Hữu Loan và bạn văn nhiều thế hệ |
Năm 1988, tôi " tái xuất giang hồ" sau 30 năm tự
chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm
trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek
VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu
đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản
tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết
60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi
trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng
mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
Hữu Loan
Màu Tím Hoa Sim (thơ)
Những đồi hoa sim
Chuyện Hoa Sim
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét