27 tháng 6, 2011

Truyền hình Trung Quốc phỏng vấn học giả Việt Nam về tranh chấp Biển Đông

Tuần Việt Nam giới thiệu toàn văn bài trả lời phỏng vấn Đài truyền hình Phượng Hoàng (Trung Quốc) của TS Vũ Cao Phan, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc như một góc nhìn cần tham khảo.
Tiến sĩ Vũ Cao Phan , nhà nghiên cứu quan hệ Việt - Trung, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc đã có buổi trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Phượng Hoàng (Hồng Kông, Trung Quốc) trong tư cách Cố vấn khoa học Viện nghiên cứu Trung Quốc (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam). Một phần của bài trả lời phỏng vấn này đã được phát trong Chương trình liên tuyến "Nhất hổ nhất tịch đàm" được truyền phát đến hơn 150 quốc gia trên thế giới tối thứ bảy, 25 /6/2011.


Phía Trung Quốc luôn leo lên trước

Sự thể hiện cứng rắn gần đây của Việt Nam ở Nam Hải (Biển Đông) biểu thị một thái độ gì ?

Trả lời : Nếu chỉ nhìn vào riêng biệt các sự kiện xảy ra gần đây để đánh giá phản ứng và thái độ của Việt Nam thì sẽ không chính xác. Phải nhìn rộng ra một chút, nhìn xa ra một chút. Vài năm gần đây ngày càng có nhiều các tàu đánh cá của phía Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ, tịch thu hết lưới cụ rồi đòi tiền chuộc. Như năm ngoái chẳng hạn, hàng chục tàu thuyền, hàng trăm ngư dân khu vực miền Trung bị bắt giữ. Đây vốn là vùng đánh cá truyền thống lâu đời và yên lành của ngư dân Việt Nam, bây giờ bỗng nhiên liên tục xảy ra những sự việc như vậy.
Có lần tivi Việt Nam chiếu cảnh hàng trăm thân nhân của những người đánh cá đứng, ngồi lam lũ trên bờ biển khóc lóc ngóng lo chồng con trở về đã gây ra rất nhiều bức xúc trong dư luận xã hội (điều này chắc các bạn Trung Quốc không biết).
Nhà đương cục Việt Nam đã nhiều lần tiếp xúc với phía Trung Quốc về vấn đề đó nhưng hầu như không được đáp ứng. Lần này Trung Quốc hành động mạnh hơn thì phản ứng của Việt Nam cũng buộc phải mạnh hơn, không có gì quá bất thường.


Tàu hải giám Trung Quốc, đội tàu thường xuyên quấy nhiễu vùng biển Việt Nam

Trong tinh thần ấy, tôi nghĩ, phát biểu của lãnh đạo Việt Nam cũng chỉ là những phản ứng tự vệ, đâu có phải là lời lẽ đe dọa chiến tranh như các bạn vừa suy luận. Nếu người dân Trung Quốc thấy bất thường thì có lẽ là vì các bạn không biết đến các sự kiện trước đó như tôi vừa nói.
Còn nếu gọi đây là một sự leo thang thì phải thấy là Việt Nam leo theo các bạn Trung Quốc. Đúng thế đấy, phía Trung Quốc luôn luôn leo lên trước.

Theo ông, tranh chấp trên Nam Hải (Biển Đông) sẽ được giải quyết bằng vũ lực hay đàm phán ?

Trả lời: Ở Việt Nam loại câu hỏi như thế này hầu như không được đặt ra; tôi nói hầu như nghĩa là không phải không có. Mặc dù Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh suốt hơn nửa thế kỷ qua nhưng không nhiều người nghĩ đến khả năng có một cuộc chiến tranh Trung - Việt vào lúc này vì những hòn đảo ở Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải).
Về phía cá nhân, tôi tin cuộc tranh chấp sẽ được giải quyết một cách hòa bình.
-Thứ nhất là vì Chính phủ hai nước luôn luôn cam kết sẽ giải quyết những tranh chấp này không phải bằng vũ lực mà thông qua con đường ngoại giao, đàm phán thương lượng.
-Thứ hai, cả hai nước đều đang ra sức phát triển kinh tế sau nhiều năm bị tàn phá bởi Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc và chiến tranh ở Việt Nam; và công cuộc xây dựng phát triển kinh tế này đang đạt được những kết quả khả quan, chắc là không bên nào muốn để chiến tranh một lần nữa kéo lùi sự phát triển của đất nước mình.
-Thứ ba, bối cảnh của một thế giới hiện đại - tôi muốn nói đến một dư luận quốc tế đã trưởng thành - sẽ mạnh mẽ góp sức ngăn ngừa một khả năng như vậy.
-Thứ tư, và điều này cũng rất quan trọng, là nếu chính phủ hai nước có nóng đầu một chút thì lý trí và tình cảm của nhân dân cả hai bên sẽ giúp cho họ tỉnh táo hơn, tôi tin như vậy. Tôi xin hỏi lại anh, chắc anh cũng không muốn có muốn một cuộc chiến tranh chứ ?
Tuy nhiên, vẫn có thể xảy ra những va chạm, xung đột nhỏ.

Bản chất của tranh chấp Trung - Việt

Bản chất của sự tranh chấp Trung - Việt, theo ông, là vấn đề kinh tế hay chủ quyền ? Việt Nam nhìn nhận nguyên tắc "gác tranh chấp, cùng khai thác" như thế nào ?

Trả lời: Đây là một câu hỏi thú vị. Các sự kiện ở Biển Đông cho thấy có cả màu sắc tranh chấp về kinh tế lẫn tranh chấp chủ quyền. Quan sát khách quan thì thấy Trưng Quốc có vẻ nghiêng về lý do kinh tế, còn Việt Nam nghiêng về lý do chủ quyền nhiều hơn. Cách nhìn vấn đề như vậy sẽ giải thích được tại sao Việt Nam không mặn mà lắm với việc "gác tranh chấp, cùng khai thác". Ta thử phân tích xem tại sao nhé. Và đây là ý kiến của cá nhân tôi thôi.
Lý do thứ nhất là tài nguyên thì có hạn, một khi khai thác hết rồi điều gì sẽ xảy ra? Liên quan đến nó là lý do thứ hai: "gác tranh chấp, cùng khai thác" mà các bạn vừa nêu mới chỉ là một nửa lời căn dặn của ông Đặng Tiểu Bình mà nguyên văn là: "Chủ quyền của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác", có đúng không? Như thế có nghĩa là khi đã cạn kiệt tài nguyên khai thác rồi, Việt Nam chẳng còn gì và Trung Quốc thì vẫn còn cái cơ bản là "chủ quyền"! Mà những hòn đảo và vùng biển ấy đâu chỉ có giá trị về tài nguyên?
Tôi ủng hộ việc hai nước cùng hợp tác khai thác tài nguyên ở Biển Đông nhưng ít nhất trước đó cũng phải làm sáng tỏ đến một mức độ nhất định nào đó (nếu chưa hoàn toàn) vấn đề chủ quyền.


Về câu hỏi của các bạn là bản chất của cuộc tranh chấp Việt - Trung là gì, kinh tế hay chủ quyền thì tôi đã phát biểu như vậy. Nhưng nếu cho tôi được phát triển theo ý mình thì tôi nói rằng, bản chất của cuộc tranh chấp này là chính trị. Quan hệ Việt - Trung không yên tĩnh đã từ mấy chục năm nay rồi và nó là một dòng gần như liên tục, trước khi xuất hiện vấn đề biển đảo những năm gần đây, có phải vậy không? Để giải quyết nó, các nhà lãnh đạo cần phải ngồi lại với nhau, ở cấp cao nhất ấy, một cách bình đẳng, bình tĩnh, thẳng thắn và chân thành. Vấn đề hóc búa đấy. Đương đầu với sự thật không dễ dàng, nhưng sẽ dễ dàng nếu xuất phát từ thiện chí mong muốn một sự bền vững thực chất cho tình hữu nghị Việt - Trung.

Làm gì để duy trì quan hệ hữu hảo Việt - Trung?

Theo ông, tương lai phát triển của quan hệ Trung - Việt sẽ như thế nào ? Làm cách nào để có thể duy trì quan hệ hữu hảo giữa hai nước ?

Trả lời: Tôi là một người có nhiều năm công tác ở Hội Hữu nghị Việt - Trung, có nhiều mối quan hệ gắn bó với Trung Quốc và nói một cách rất chân thành là tôi yêu Trung Quốc, khâm phục Trung Quốc và thậm chí có thể gọi là "thân Trung Quốc" cũng được. Vì thế, điều mong muốn thường trực của tôi là làm sao xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp, thật sự tốt đẹp giữa nhân dân hai nước. Chắc các bạn cũng muốn vậy. Nhưng có không ít việc phải làm. Có việc phải bắt đầu lại.
Trước hết, như tôi đã nói là phải ngồi lại với nhau. Có vị bảo với tôi là ngồi mãi rồi còn gì. Không, ngồi như vậy chưa được, ngồi như vậy không được. Ngồi thế không phải là ngồi thẳng.
Về phần mình với mong muốn như vậy, tôi xin được gửi gắm đôi điều giống như là những lời tâm sự đến các bạn:
-Thứ nhất là, vấn đề đàm phán song phương giữa hai nước. Tôi nghĩ đàm phán song phương cũng tốt, cũng cần thiết. Những nơi có tranh chấp đa phương như quần đảo Trường Sa (Nam Sa) thì cần phải đàm phán nhiều bên còn như quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) là vấn đề của riêng hai nước Việt Nam và Trung Quốc lại khác. Nhưng Chính phủ các bạn lại tuyên bố Hoàng Sa dứt khoát là của Trung Quốc, không phải là vấn đề có thể đưa ra đàm phán. Vậy thì còn cái gì nữa để mà "song phương" ở đây? Chính tuyên bố ấy của Trung Quốc đã đóng sập cánh cửa "con đường song phương".
Tình trạng tranh chấp Hoàng Sa rất giống với tình trạng tranh chấp của đảo Điếu Ngư, giữa Trung Quốc và Nhật Bản mà ở đấy, địa vị của Trung Quốc hoàn toàn giống như địa vị của Việt Nam ở Hoàng Sa lúc này. Chẳng lẽ Trung Quốc lại có một tiêu chuẩn kép cho những cuộc tranh chấp giống nhau về bản chất sao ?
-Thứ hai là, chúng ta thường nói đến sự tương đồng văn hóa giữa hai nước như là một lợi thế cho việc chung sống hữu nghị bên nhau giữa hai dân tộc. Điều đó đúng một phần, nhưng mặt khác, văn hóa Việt Nam, nhất là văn hóa ứng xử có sự khác biệt với lớn Trung Quốc. Nếu văn hóa ứng xử của người Trung Quốc là mạnh mẽ, dứt khoát, quyết đoán (và do đó thường áp đặt?), nặng về lý trí, thì văn hóa ứng xử của người Việt Nam là nhẹ nhàng, khoan dung, nặng về tình, ơn thì nhớ lâu, oán thì không giữ. Hình như các bạn Trung Quốc chưa hiểu được điều này ở người Việt Nam. Cần phải hiểu được như vậy thì quan hệ giữa hai bên mới dễ dàng.
Tôi có thể lấy một ví dụ. Những sự kiện ở Nam Kinh, ở Lư Cầu Kiều xảy ra đã hơn bảy chục năm rồi. Nhưng mỗi khi có vấn đề với Nhật Bản, người Trung Quốc lại xuống đường biểu tình, đầy căm thù nhắc lại những sự kiện ấy. Người Việt Nam thì không như vậy. Phát xít Nhật đã góp phần gây ra nạn đói giết chết hàng triệu người Việt Nam năm 1945, và trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1965 - 1975, người Mỹ, người Hàn Quốc đã gây rất nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Nhưng sau chiến tranh, chính những người lính các nước này khi trở lại Việt Nam đã rất ngạc nhiên bắt gặp những nụ cười niềm nở thân thiện của người dân. Có lẽ nhờ thái độ, cách ứng xử đó của người Việt Nam chăng mà Mỹ, Nhật, Hàn cuối cùng đã trở thành những đối tác kinh tế và thương mại lớn, và là những nước viện trợ hàng đầu cho Việt Nam sau chiến tranh?
Nói như thế vì tôi thấy rằng, cách ứng xử nặng nề của phía Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang đẩy những người Việt Nam vốn rất yêu quý Trung Quốc ra xa các bạn, chứ không phải là Việt Nam cố đi tìm những liên minh ma quỷ để chống Trung Quốc.
Lấy thêm một ví dụ nữa nhé! Bây giờ chúng ta đã có thể hiểu bản chất sự kiện (cũng có thể gọi là cuộc chiến tranh) tháng 2/1979 rồi. Người Việt Nam đã muốn quên đi, và khi tiếp xúc với các bạn Trung Quốc vẫn luôn giữ một sự niềm nở chân tình. Trái lại người Trung Quốc rất hay nói đến sự kiện đó. Các bạn biết không, năm 2009, tôi chẳng để ý đó là năm gì, giở báo, mạng của các bạn mới biết là đã 30 năm kể từ 1979. Không phải chỉ vào tháng 2 đâu mà suốt cả năm 2009 người ta nói về sự kiện này. Hàng mấy trăm bài viết, nhiều bài trên mạng mà nhìn vào chỉ muốn khóc. Lời lẽ thật tàn tệ. Thôi, cho chuyện này qua đi ...


Để Biển Đông không nổi sóng, các bên cần thẳng thắn và thiện chí.

-Thứ ba là, quan hệ giữa hai nước chúng ta thậm chí phải trở nên đặc biệt vì chúng ta có sự tương đồng văn hóa, lịch sử, là láng giếng không thể cắt rời, từng hoạn nạn có nhau (bản thân tôi là một người lính trong chiến tranh, tôi không thể nào quên sự giúp đỡ chí tình của nhân dân Trung Quốc về cả vũ khí, lương thực mà mình trực tiếp được sử dụng). Hai nước chúng ta lại đang cùng cải cách mở cửa, phát triển kinh tế. Chừng ấy lý do là quá đủ để quan hệ này trở nên hiếm có, trở nên đặc biệt.
Tôi nói như vậy là muốn phát biểu thêm rằng, hai nước còn một lý do tương đồng nữa là cùng thể chế chính trị, cùng ý thức hệ, điều hay được người ta nhắc đến.
Nhưng theo ý kiến cá nhân tôi - của riêng tôi thôi nhé - thì không cần nhấn mạnh điểm tương đồng này. Nó tồn tại như một điều kiện, một lý do thế thôi, không cần nhấn mạnh như cách hai nước vẫn làm. Giữa các nước có cùng ý thức hệ kiểu này vẫn xảy ra xung đột, chiến tranh vì quyền lợi quốc gia như chúng ta đã biết đấy thôi. Thực tế là quyền lợi quốc gia cao hơn ý thức hệ. Chúng ta nên thẳng thắn nhìn nhận vậy để khỏi dối lòng nhau.
Hơn nữa, giả dụ một ngày nào đó một trong hai nước chúng ta có một thể chế chính trị khác thì sao, chúng ta lúc ấy còn cần duy trì quan hệ láng giềng tốt nữa không ? Vẫn cần chứ, rất cần. Vậy thì ...
Tôi rất sẵn lòng cùng các bạn làm tất cả những gì để hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa đã hiểu biết càng hiểu biết nhau hơn nữa, đã gần gũi càng gần gũi nhau hơn nữa. Cám ơn Đài Truyền hình Phượng Hoàng đã dành cho tôi cuộc phỏng vấn này.

Tác giả: Hạnh Nguyên
Nguồn: tuanvietnam

21 tháng 6, 2011

Nếu Tàu đánh ta, ai sẽ bỏ chạy ra nước ngoài?

Mới đây tôi nhận được thư của con gái từ nước ngoài gửi về. Con tôi rất lo lắng về việc càng ngày Tàu càng gia tăng khiêu khích quân sự trên vùng biển của ta với những hành động tàn bạo, ngang ngược, bất chấp mọi luật pháp và đạo lý đối với dân ta, nước ta. Ta càng nhân nhượng, Tàu càng lấn tới và đến mức không còn kìm nén, nhẫn nhục được nữa thì tất yếu xảy ra chiến tranh… Ai cũng có thể hình dung Tàu to lớn, thâm độc, nhỏ nhen, hung hăng, tàn ác như thế nào! Và con gái khuyên: Bố mẹ già yếu rồi, chuẩn bị sơ tán sang đây với chúng con… Chiến tranh xảy ra bây giờ không như ngày xưa đâu, họ chạy hết ấy mà!? Tôi thấu hiểu tấm lòng, nỗi âu lo của con cái cho bố mẹ. Tôi nghĩ người con nào ở vào hoàn cảnh như con gái tôi cũng lo lắng cho cha mẹ và mong cha mẹ sang lánh nạn… Nhưng có điều con tôi đặt ra: “Họ chạy hết ấy mà”, làm tôi cứ băn khoăn suy nghĩ: “Họ” ở đây là ai? Có phải con tôi đã nghĩ sai chăng? Hay đúng là xã hội ngày nay có một bộ phận chỉ lo vơ vét đầy túi, lo vinh thân, phì gia và khi có biến là chuồn nhanh, mặc dân, mặc nước? Tôi càng băn khoăn khi thấy nhiều người sôi sục biểu tình bày tỏ tình yêu nước, căm phẫn lên án hành động trắng trợn vừa ăn cướp, vừa la làng của bọn Tàu, thì nhiều người khác lại thờ ơ, thậm chí có những kẻ ngăn cản, đe dọa, đàn áp những người biểu tình, trong khi người dân chỉ muốn bày tỏ lòng yêu nước môt cách ôn hòa, đúng pháp luật…

Cùng lúc này tôi nhận được thư của một bạn trẻ từ nước Đức hỏi, có phải ở nhà sắp có lệnh tổng động viên vào bộ đội để chiến đấu với bọn bành trướng Trung Quốc không? Nếu có, cháu sẵn sàng xin nhập ngũ! Và một ông bạn, đúng ra là người cùng họ Mạc, mới nhận ra nhau và thư qua lại chia sẻ…, gửi thư về từ nước Pháp nói: Tôi ra đi từ Sài Gòn sau 1975, nay đã ngoài 60 tuổi, nhưng nếu Tàu đánh ta, tôi sẵn sàng tự nguyện về nước, cầm súng chiến đấu cùng nhân dân!... Anh đưa khẩu hiệu lên Blog: “Mọi người hãy tẩy chay hàng hóa Tàu!”. Đọc thư anh, tôi ngồi lặng trầm tư, mắt rưng rưng... Lòng yêu nước của dân ta thật lạ kỳ! Kẻ thù thường không hiểu được và những kẻ ích kỷ, vô cảm cũng không cảm nhận rõ được lòng yêu nước của dân mình!

Tôi viết thư cho con gái: Nếu đất nước thanh bình, bố mẹ sẽ sang chơi, còn khi đất nước lâm nguy, những người trẻ tuổi chẳng tiếc thân mình, xả thân chiến đấu cứu nước, thì cái thân già này sao còn sợ chết!?

Dù vậy, tôi vẫn băn khoăn điều con nhắc nhở: “Họ sẽ chạy hết ấy mà!”. Họ là những ai? Có phải “họ” là loại người giống như hai trường hợp “Giang Kim Đạt, nguyên Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Vận tải viễn dương Tập đoàn VINASHIN và Hồ Ngọc Tùng, nguyên Tổng Giám đốc tài chính Tập đoàn VINASHIN đã ra nước ngoài trước khi bị khởi tố. Theo đó, Ban Tổng thư ký Interpol quốc tế đã ra lệnh truy nã quốc tế đối với hai bị can này”... (CAND Online, 19/6/2011: Truy nã quốc tế 2 VIP của VINASHIN).

Nếu vậy thì lời cảnh báo của con gái là có lý đấy!


Mạc Văn Trang
Nguồn:boxitvn

17 tháng 6, 2011

Bức ảnh tháng 6 tại Việt Nam




Căm bá quyền,
Anh mang trên lưng hình nước.

Khiếp bắc phương,
Mi ! để thế nước chênh vênh
.

11 tháng 6, 2011

Làm gì để bảo vệ Tổ quốc?

Trong những ngày vừa qua, dư luận trong nước và quốc tế đặc biệt quan ngại về vụ việc ngày 26/05/2011, ba tàu Hải giám Trung Quốc đã xâm phạm vùng lãnh hải của Việt Nam và thực hiện hành vi cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) trong khi đang làm nhiệm vụ thăm dò địa chấn tại vị trí cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên 120 hải lý nằm trong khu vực thềm lục địa của Việt Nam. Sự kiện này đã dấy lên làn sóng dư luận phản đối từ phía Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Thậm chí vụ việc này đã được đề cập tại Hội nghị An ninh Châu Á lần thứ 10 tổ chức tại Singapore qua phần phát biểu ngắn gọn rõ ràng và khúc triết về chủ đề “Ứng phó với các thách thức an ninh trên biển” của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh. Bên cạnh đó các tàu hải giám và ngư chính của Trung Quốc còn có hành vi đe dọa, ngăn cản các tàu của ngư dân Việt Nam đánh cá tại các khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Nghiêm trọng hơn, vào hồi 6h sáng ngày 9/6, Tàu thăm dò địa chấn 3D Viking II do liên doanh CGG Veritas (Pháp) được Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam (PTSC) thuê trong khi đang thu nổ địa chấn tại lô 136.03, tại tọa độ 6 độ 47,5 phút bắc; 109 độ 17,5 phút kinh đông thuộc phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa Việt Nam thì một tàu cá Trung Quốc mang số hiệu 6226 được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính Trung Quốc mang số hiệu 311 và 303 đã cố tình chạy cắt ngang phần dây kéo giữ thiết bị dàn trải cáp thu và phá hoại 4 đường cáp thu phía bên trái tàu. Mặc dù trước đó, Tàu Viking II đã phát tín hiệu cảnh cáo nhưng tàu cá Trung Quốc được sự yểm trợ của hai tầu ngư chính Trung Quốc vẫn cố tình thực hiện hành vi phá cáp của Viking II. Trước đó, vào ngày 31/5, Tàu Viking cũng đã bị tàu Trung Quốc quấy rối khi đang khảo sát cho tập đoàn Nhật Idemitsu tại lộ 05-1D trong khu vực gần mỏ Đại Hùng thuộc vùng biển Vũng Tàu của Việt Nam. Tuy nhiên, sự việc này chưa được đề cập trên công luận cũng như trong những phát ngôn chính thức của Việt Nam vì chưa xảy ra thiệt hại về vật chất.

Như vậy, có thể nói rằng việc Trung Quốc sử dụng các loại tàu đánh cá, tàu quân sự trá hình thành tàu ngư chính hoặc hải giám để thực hiện hàng loạt các hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh hải nhằm ngăn cản, phá hoại tài sản đối với các hoạt động đánh cá, thăm dò khai thác tài nguyên của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng hơn.

Để cho công luận hiểu rõ hơn những hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của Trung Quốc, chúng tôi, những luật sư thuộc Văn Phòng Luật Sư AIC (AIC Lawyers & Consultants), Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội cùng với hàng loạt các luật sư thuộc mười văn phòng và công ty luật khác tại Việt Nam xin được đưa ra những phân tích, nhận định, đánh giá về mặt pháp lý đối với các hành vi này. Đồng thời, với sự hiểu biết của mình, chúng tôi cũng mạnh dạn xin đưa ra một số kiến nghị, đề xuất về định hướng giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam tránh sự việc tái diễn gây bất ổn trong khu vực.

Các hành vi vi phạm của Trung Quốc và cơ sở pháp lý chứng minh hành vi vi phạm
Trở lại vụ việc xảy ra với tàu Bình Minh 02 vào ngày 26/5/2011 và tàu Viking II vào ngày 9/6, cả hai trường hợp này các tàu của Việt Nam đều đang hoạt động thăm dò thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam theo quy định tại Khoản 1 Điều 76 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển. Ngoài ra, căn cứ vào Điều 57 và Khoản 1, Điều 77 của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 thì tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II đều thực hiện việc thăm dò địa chấn tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế này. Bất cứ quốc gia nào hay bất cứ thế lực nào ngăn cản những hoạt động bình thuờng nhằm mục đích kinh tế của tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc về Luật biển.

Item 1, Article 76 of United Nations Convention on Law of the sea:

“The continental shelf of a coastal State comprises the seabed and subsoil of the submarine areas that extend beyond its territorial sea throughout the natural prolongation of its land territory to the outer edge of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured where the outer edge of the continental margin does not extend up to that distance”.

Tạm dịch:

Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó không vượt quá khoảng cách này.

Item 1, Article 77 of United Nations Convention on Law of the sea:

“The coastal State exercises over the continental shelf sovereign rights for the purpose of exploring it and exploiting its natural resources”.

Tạm dịch:

“Quốc gia ven biển được thực thi các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình”.

Article 57 United Nations Convention on Law of the sea:

“The exclusive economic zone shall not extend beyond 200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured”.

Tạm dịch:

“Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.


Tàu Hải giám 84 Trung Quốc xâm phạm Lãnh hải Việt Nam. (Ảnh: Năng lượng mới)

Hành động xâm phạm vùng biển, uy hiếp, đe dọa, ngăn cản và phá hoại bằng hành vi cắt cáp tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II của các tàu hải giám và tàu ngư chính Trung Quốc là trái với các quy tắc ứng xử quốc tế và vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật biển quốc tế 1982 bởi:

Thứ nhất: Các tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc đã xâm phạm vùng biển thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được quy định tại Điều 57 Công ước Luật biển quốc tế năm 1982.

Thứ hai: Với tư cách là thành viên Liên Hiệp Quốc và của các Công ước quốc tế về biển, các tuyên bố khu vực thì Trung Quốc buộc phải tuân thủ một cách đầy đủ các cam kết của mình. Với hành động đe dọa ngăn cản và phá hoại hoạt động bình thường của các tàu Bình Minh 02 và Viking II nằm sâu trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc cũng đã vi phạm nghiêm trọng Hiến Chương Liên Hiệp Quốc quy định về việc các quốc gia không được tiến hành các hành vi bạo lực hay đe dọa dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế.

Thứ ba: Trung Quốc cũng vi phạm nghiêm trọng những cam kết của chính mình được nêu tại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông - DOC 2002 mà Trung Quốc và ASEAN đã cam kết về việc giải quyết các tranh chấp về biển Đông

Khoản 3, khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy định:
(Item 3, 4 Article 2 of Charters of United Nations)

“3. All Members shall settle their international disputes by peaceful means in such a manner that international peace and sercurity and justice are not endangered

4. All Members shall refrain in their international relations from the threat or use of force against the territorial integrity or political independence of any state, or in any other manner inconsistent with the Purposes of the United Nations.”

Tạm dịch:

“3. Tất cả các Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế, và công lý.

4. Tất cả các Thành viên đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, hoặc bằng bất cứ phương cách nào trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, là trái với những Mục đích của Liên Hiệp Quốc.”

Điều 301 Hiến chương Liên Hiệp Quốc:
(Article 301 of of United Nations Convention on Law of the sea)

“Peaceful uses of the seas

In exercising their rights and performing their duties under this Convention, States Parties shall refrain from any threat or use of force against the territorial integrity or political independence of any State, or in any other manner inconsistent with the principles of international law embodied in the Charter of the United Nations.”

Tạm dịch:

“Việc sử dụng biển vào những mục đích hòa bình

Trong việc áp dụng các quyền và thực hiện nghĩa vụ của mình theo Công ước này, các quốc gia thành viên không được đe dọa hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào hoặc không được sử dụng bất kỳ phương cách nào khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được quy định tại trong Hiến chương Liên hợp quốc.”

Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông - DOC 2002:

4. The Parties concerned undertake to resolve their territorial and jurisdictional disputes by peaceful means, without resorting to the threat or use of force, through friendly consultations and negotiations by sovereign states directly concerned, in accordance with universally recognized principles of international law, including the 1982 UN Convention on the Law of the Sea;

5. The Parties undertake to exercise self-restraint in the conduct of activities that would complicate or escalate disputes and affect peace and stability including, among others, refraining from action of inhabiting on the presently uninhabited islands, reefs, shoals, cays, and other features and to handle their differences in a constructive manner.”

Tạm dịch:

4. Các bên liên quan cam kết giải quyết những tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực, thông qua tham khảo ý kiến và thương lượng hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc được công nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.

5. Các bên liên quan cam kết tự kiềm chế không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc gia tăng các tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, kể cả không tiến hành các hoạt động đưa người đến sinh sống trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cát ngầm, dải đá ngầm và những cấu trúc khác hiện chưa có người sinh sống và xử lý các bất đồng một cách xây dựng.”

Trong tuyên bố về DOC 2002: Trung Quốc và các nước ASEAN đã sử dụng những cụm từ như: “cam kết giải quyết những tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc gia tăng các tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định”. Tuy vậy, Trung Quốc đã dùng bạo lực, cố ý gây hấn đối với Việt Nam, hành động này vi phạm trắng trợn tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông.

Như vậy, với việc liên tục thực hiện các hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, cắt cáp, phá hoại, ngăn không cho tiến hành hoạt động thăm dò, nghiên cứu địa chấn của tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II, phía Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử biển Đông DOC 2002.

Kết luận


Trước những hành động ngang ngược đe dọa sử dụng vũ lực của Trung Quốc xâm phạm tới vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chúng ta cần giải quyết vấn đề này một cách khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cương quyết thông qua con đường ngoại giao, thương lượng trong hòa bình đồng thời kiên quyết đấu tranh trên phương diện pháp lý nhằm đáp trả những hành động bạo lực của Trung Quốc, ngăn chặn nguy cơ tái diễn trong tương lai. Để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần áp dụng một số biện pháp sau:

Quốc tế hóa vấn đề Biển Đông

Sử dụng các kênh ngoại giao chính thức, các diễn đàn có sự tham gia của cộng đồng quốc tế đặc biệt là các diễn đàn ASEAN trở thành các diễn đàn chính trị khu vực nhằm điều phối quan điểm chung và giành lợi thế trước Trung Quốc. Đồng thời lôi kéo sự quan tâm của cộng đồng thế giới đến các tranh chấp Biển Đông và chỉ ra rằng đây không chỉ là tranh chấp giữa Việt Nam mà còn là tranh chấp của các nước trong khối ASEAN với Trung Quốc. Để thực hiện được mục đích này cần tập hợp đầy đủ các bằng chứng và cơ sở pháp luật để chứng minh các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc tại các diễn đàn nêu trên như vừa qua chúng ta đã khéo léo đưa vấn đề Biển Đông ra Hội nghị An ninh Châu Á lần thứ 10 tổ chức tại Singapore mà lãnh đạo Bộ Quốc Phòng đã có những phát biểu được dư luận đánh giá là mang tầm cao chiến lược, đóng góp vào quá trình phát triển ổn định của khu vực.

Công khai hóa vấn đề Biển Đông


Công khai hóa các tranh chấp Biển Đông trước công luận trong nước và quốc tế để từ đó tận dụng báo chí truyền thông trong nước và quốc tế như một phương tiện hữu hiệu chứng minh chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam và đưa ra những quan điểm khách quan, toàn diện về mọi khía cạnh liên quan đến nguyên nhân tranh chấp và các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc. Việc công bố rộng rãi các thông tin này đến toàn thể nhân dân và cộng đồng quốc tế sẽ tạo được sự hiểu biết và ủng hộ mạnh mẽ của dư luận quốc tế đối với Việt Nam.

Đàm phán đa phương


Xây dựng và áp dụng triệt để phương án giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua đàm phán đa phương, tuyệt đối tránh đàm phán song phương với Trung Quốc để không rơi vào trạng thái tự cô lập mình.

Tận dụng lợi thế trong ASEAN, Việt Nam chủ động đưa vấn đề tranh chấp biển Đông ra các diễn đàn khu vực và thúc đẩy các nước ASEAN đặc biệt là các nước có cùng lợi ích trực tiếp tại biển Đông cùng hợp tác với Việt Nam đàm phán với Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải đưa ra những thông điệp đối với các nước trong khu vực có đường biên giới chung trên biển với Trung Quốc cảnh báo về việc lợi ích của chính họ cũng sẽ bị xâm phạm đồng thời khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia ASEAN nêu cao tinh thần đoàn kết chống lại chủ trương “đường 9 khúc” của Trung Quốc. Bằng những hành động cụ thể chứng minh cho họ thấy “môi hở thì răng lạnh”, hôm nay chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm thì ngày mai sẽ tới lượt đất nước họ. Từ đó, các nước cùng có lợi ích tại Biển Đông cùng với các quốc gia khác có lợi ích kinh tế liên quan cùng tham gia đàm phán đa phương với Trung Quốc trong quá trình giải quyết tranh chấp Biển Đông.

Nhằm đối phó với các tình huống có nguy cơ tái diễn tương tự như vụ tàu Bình Minh 02, tàu Viking II chúng ta cần có những hành động cụ thể

Xây dựng lực lượng bán quân sự trên biển nhằm mục đích bảo vệ an toàn tốt nhất cho các hoạt động kinh tế diễn ra hàng ngày trên biển như: khai thác khoáng sản, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản cùng các hoạt động khác diễn ra trên biển. Đây là phòng tuyến đầu tiên, là lực lượng thường trực trong mọi trường hợp nếu xảy ra sự cố họ có nhiệm vụ tiên phong bảo vệ vùng biển, đảo kết hợp nhuần nhuyễn với lực lượng an ninh, quốc phòng bảo đảm an toàn cho mọi hoạt động trên biển, đồng thời sẽ đáp trả khi cần thiết.

Đề xuất


Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam với tư cách là quốc gia bị Trung Quốc xâm phạm lãnh hải, xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam đối với vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, cần thiết phải áp dụng các biện pháp kiên quyết nhằm tự vệ mà vẫn tránh được các hành động thiếu kiềm chế dẫn đến xung đột leo thang hoặc tranh chấp vũ trang trên biển. Theo đó, việc đấu tranh trên mặt trận pháp lý là cần thiết, hữu hiệu và vô cùng quan trọng. Đồng thời, PVN với tư cách là đơn vị bị thiệt hại về tài sản do các hành vi vi phạm của Trung Quốc, ngay lập tức cần thiết phải có phản ứng quyết liệt bằng cách khởi kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản. Việc khởi kiện sẽ tạo ra một tiếng nói chung thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam sẽ tạo uy tín cho Việt Nam trước cộng đồng thế giới đồng thời cũng để cho công luận quốc tế có được cái nhìn xác thực, khách quan đối với các tranh chấp tại Biển Đông với Trung Quốc mà Việt Nam chỉ là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với thách thức này.

Để thực hiện được mục tiêu này chúng tôi xin được đưa ra đề xuất như sau:

Về phía Chính phủ Việt Nam

Cần phải có những hành động mạnh mẽ thể hiện ý chí quyết tâm trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển và hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Các hành động đấu tranh trên mặt trận ngoại giao cần thiết phải được thực hiện ngay như gửi công hàm chính thức phản đối Trung Quốc cần phải được đệ trình lên Liên Hợp Quốc tố cáo về các hành vi xâm phạm lãnh hải, đe dọa sử dụng vũ lực để ngăn cản các hoạt động bình thường của các ngư dân và doanh nghiệp Việt Nam tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử biển Đông DOC 2002.

Đối với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN

PVN cần thiết phải đề cử các luật sư đại diện tiến hành các thủ tục khởi kiện nhà nước Trung Quốc tại cơ quan tài phán quốc tế yêu cầu: Chấm dứt các hành vi trực tiếp gây thiệt hại cho các doanh nghiệp của PVN đang hoạt động kinh tế trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam; Yêu cầu Nhà nước Trung Quốc phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho PVN do những hành vi cố ý vi phạm pháp luật quốc tế của phía Trung Quốc gây ra đối với PVN.

Về nội dung và trình tự khởi kiện, Văn phòng Luật sư AIC (AIC Lawyers & Consultants), Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội hợp tác cùng với mười Văn phòng và Công ty luật khác tại Việt Nam đề nghị được ủy quyền/đại diện cho tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN tiến hành các thủ tục cần thiết để khởi kiện nhà nước Trung Quốc về các hành vi gây thiệt hại cho PVN.

Thay cho lời kết

Chúng ta, một dân tộc yêu chuộng hòa bình, nhưng trong con tim mỗi người dân đất Việt luôn luôn ghi nhớ trên từng thước đất của Tổ quốc thân yêu bất cứ nơi đâu cũng thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt của cha ông. Bởi vậy bằng bất cứ giá nào chúng ta phải bảo vệ chủ quyền của dân tộc, bảo vệ giá trị cao đẹp mà tiền nhân đi trước đã giao lại trọng trách cho chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là sức mạnh chính nghĩa, sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết”. Chúng ta yêu chuộng hòa bình và thấu hiểu nỗi khổ đau của một dân tộc bị đô hộ mà lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước đã ghi lại. Nhưng cũng chính từ những bài học lịch sử trải qua bao cuộc chiến tranh với các nước lớn, các thế lực thù địch, bản lĩnh Việt Nam đã được chứng minh, với hàng nghìn năm bị đô hộ mà người Việt Nam vẫn gìn giữ được non sông gấm vóc của mình mà không bị các dân tộc khác đồng hóa.

“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, tôi, các bạn và chúng ta - tất cả những người con dân đất Việt, bất kể tầng lớp, tôn giáo, giai cấp hãy cùng nhau bỏ qua những bất đồng chính kiến, hãy tạm gác những lợi ích trước mắt của từng cá nhân để cùng hướng về Biển Đông, nắm chặt tay nhau để tăng thêm sức mạnh bảo vệ vùng biển máu thịt của Tổ quốc. Chúng tôi có niềm tin vững chắc rằng công lý sẽ được thực thi.

Bởi thế, bất kỳ một một thế lực nào đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh vi phạm các quy định của Luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của chúng ta thì những người con dân đất Việt không thể khoanh tay, im lặng. Chúng ta kiên trì bằng biện pháp hòa bình, công khai minh bạch để dư luận nhân dân thế giới, trong đó có cả nhân dân Trung Quốc hiểu được Việt Nam là nước yêu chuộng hòa bình. Nhưng khi đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ nó. Đó là điều bất biến.

Lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm đã chứng minh rằng khi đất nước có nguy cơ bị xâm phạm đến chủ quyền thì lòng yêu nước luôn luôn được kết tinh thành một khối vô cùng vững chắc và mạnh mẽ có thể cuốn phăng bất cứ kẻ thù nào. Dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền. Chúng tôi tin rằng trong tâm khảm mỗi người dân đất Việt đều khắc sâu lời thơ tại “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc”

NamQuốc Sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


Luật sư Lê Thanh Sơn
Văn Phòng Luật Sư AIC - Lawyers & Consultants